Trong cụm này thì có hai chữ "thụ" nhưng ý nghĩa khác nhau, ngược nhau hay đúng ra là một cặp đối nhau.
授 thụ = đưa cho (có bộ "thủ" 手 tức là tay), ví dụ giáo thụ, truyền thụ
受 thụ = nhận lấy (không có bộ "thủ"), ví dụ thụ động, thụ hưởng
"thụ thụ" 授受 tức là "đưa và nhận".
"bất thân" 不親 tức là "không tiếp xúc nhau, không chạm nhau".
Vậy chữ thụ nào đứng trước? Phải là 授 thụ vì phải có người đưa rồi mới nhận được, đây là thứ tự thời gian theo đúng luật nhân quả.
Nhưng trong từ điển chữ Tôm thì không dễ để đưa ra chữ "thụ" đúng vì trong tiếng Việt hai "thụ" y chang nhau.
Với tâm huyết làm từ điển chữ Tôm (chữ Nôm mới) chuẩn xác, chúng ta cần một thuật toán để đưa ra quyết định đúng. Chúng ta, dùng não người mà vật chất chủ yếu là bã đậu, có thể suy luận như trên, nhưng với từ điển chữ Tôm thì hai chữ "thụ" chỉ là một mà thôi.
Để cho dễ thì chúng ta đánh số các chữ "thụ": nam nữ thụ (1) thụ (2) bất thân
thụ (1) = 授
thụ (2) = 受
Ví dụ ta lưu cả hai chữ vào cơ sở dữ liệu với thứ tự 受 trước 授, và không có câu trên tham chiếu (reference), thì cả hai chữ thụ đều cho ra 受.
Bây giờ, nếu ta lưu cả hai chữ thụ với tham chiếu là câu trên thì sao?
受 => Reference: nam nữ thụ thụ bất thân
授 => Reference: nam nữ thụ thụ bất thân
Cả "thụ (1)" lẫn "thụ (2)" đều sẽ thấy tham chiếu ở 受 ngang với tham chiếu ở 授 nhưng do 受 xếp trước (chỉ là tình cờ) nên đều cho ra chữ 受.
Nếu tham chiếu như sau:
受 => Reference: [trống]
授 => Reference: nam nữ thụ thụ bất thân
Nếu thế thì cả thụ (1) và thụ (2) đều chỉ thấy tham chiếu ở 授 nên đều cho ra kết quả là 授.
Cách giải quyết: Gán thụ (1) cho 授 và thụ (2) cho 受
Sở dĩ kết quả không như ý là bởi vì máy tính nhìn hai "thụ" giống hệt nhau, chứ không thể (hay chưa thể) suy luận như chúng ta được. Chúng ta cũng không suy luận ra nếu chỉ nhìn tiếng Việt, chẳng qua là chúng ta biết trước 男女授受不親, tức là cũng gọi là chẳng thông minh gì mấy.Do đó, chúng ta phải giảng làm sao để máy tính hiểu được. Vậy thì, nếu chúng ta giảng rằng 受 phải là chữ thụ thứ hai, tức thụ (2), thì phải xóa chữ thụ (1) đi, nên tham chiếu sẽ như sau:
受 => Reference: nam nữ X thụ bất thân
Tức là 受 chính là chữ "thụ" đi ngay trước "bất thân", chứ không phải "thụ" đi sau "nam nữ".
授 cũng được giảng như vậy:
授 => Reference: nam nữ thụ X bất thân
Như vậy, khi xét thụ (1) chúng ta có "nữ thụ", "thu thụ", thì chúng ta chỉ thấy tham chiếu "nữ thụ" ở 授, nên sẽ chọn 授 này.
Khi xét thụ (2) chúng ta có "thụ thụ", "thụ bất" và chỉ tìm thấy tham chiếu "thụ bất" trong 受.
Cuối cùng cho ra kết quả đúng trên từ điển chữ Tôm.
Ngoài ra, có thể không cần dùng X để thay thế mà chỉ cần biến đổi đi một chút để không tìm được tham chiếu "nữ thụ", "thụ thụ" hay "thụ bất" nên có thể dùng dấu ngoặc chẳng hạn:
受 => Reference: nam nữ [thụ] thụ bất thân
授 => Reference: nam nữ thụ [thụ] bất thân
Như thế vẫn đọc đúng được mà từ điển vẫn chọn đúng.
Takahashi