Thứ Hai, 30 tháng 7, 2018

"Cùng cha khác ông nội"

Phiên bản khác (joking): "Cùng cha khác ông ngoại"

Vì sao lại "cùng cha khác ông nội"?

- Đây là anh em của tôi.
- Anh em "cùng cha khác ông nội" hả?

Hay:
- Hai người là anh em ruột à?
- Không, chỉ là anh em "cùng cha khác ông nội" thôi.

Sở dĩ nói "cùng cha khác ông nội" là vì ngày nay người ta nhận "anh em" quá nhiều, theo kiểu "chủ nghĩa huynh đệ", "thêm bạn bớt thù". Hai người chẳng có gì chung cũng nhận làm "anh em, huynh đệ", nói chuyện "anh anh, em em" làm như thân thiết lắm. Một người ngày nay không có một, hai anh em (ruột) nữa mà là chục, hay mấy chục, thậm chí cả trăm "anh em, huynh đệ". Đa phần là đi nhậu và gái gú vv thôi. Hở ra chút là gọi "mấy thằng đệ" làm như thân thiết lắm.

Nên khi họ giới thiệu đấy là "thằng em", "ông anh", hay "huynh đệ" thì phải coi chừng là "cùng cha khác ông nội", tức là không có ruột rà máu mủ gì, chỉ là nhận vơ (mà cũng chẳng xin phép cha mẹ của nhau hay cắt máu ăn thề, kết nghĩa đào viên gì cả), thường là qua kết tình huynh đệ bằng mấy chai bia là được.

Nghe thì có vẻ thân thiết mà nếu chúng ta cứ tưởng họ là anh em thật, nghĩa rằng họ sẽ sống chết có nhau mà bỏ vốn làm ăn chung là TIÊU ĐỜI. Vì dạng anh em "cùng cha khác ông nội" này mà xung đột lợi ích là sẽ phản nhau liền ^^ Nên từ đầu, xác định cho rõ. Vì anh em cùng nhà còn phản nhau nữa là, nhất là những nơi coi trọng vật chất hơn danh dự, hay đúng ra là tầng lớp văn hóa thấp và dễ dãi.

Nguyên nhân của "chủ nghĩa huynh đệ" là gì?

Trong xã hội nho xanh, người ta được mẹ dạy tính tư lợi từ nhỏ, nuôi dạy để trở thành "nữ nhân", tức là vẫn là xã hội mẫu hệ. Những người này tinh thần yếu đuối, tính tự lập thấp nhưng tính thích trục lợi, tư lợi cao.

Vì tinh thần yếu đuối nên ra đường gặp ai "có vẻ nhờ được" là ôm chầm lấy đòi kết tình huynh đệ, gọi huynh xưng đệ. Hơn nữa, lại còn "thêm bạn bớt thù" nên luôn sợ hãi tiểu nhân làm hại, người khác ghét mình (đã nói là được mẹ hiền nuôi dạy thành nhân cách nữ nhân).

Ngoài ra, còn có tính tư lợi cao, nên gặp ai cũng muốn kết thân để kiếm mối làm ăn. Vì không có tính chủ thể, tự lập, chỉ muốn có ai mang lợi tới sẵn, không muốn tự tạo dựng, vất vả cực thân ra.

Vì thế, chủ nghĩa huynh đệ chỉ là kiểu người dễ dãi, không đáng tôn trọng.
Takahashi

"Tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ" trong tiếng Nhật

tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ = 修身斉家治国平天下 or 修身・斉家・治国・平天下
>>Yomikata
>>Chém gió

Ngữ nghĩa của "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ"

tu thân  修身 = sửa lại hành vi của bản thân cho đúng đắn, "tu" ở đây là sửa chữa (tu lý 修理, tu chính 修正, tu sửa)
tề gia 斉家 = cai quản, quản lý gia đình cho tốt và chu toàn (giống như 斉天大聖 "tề thiên đại thánh", 整斉 "chỉnh tề")
trị quốc 治国 = 国を治める(くにをおさめる) cai trị quốc gia
bình thiên hạ 平天下 = bình định thiên hạ, làm cho mọi người trong thiên hạ được vui hưởng thái bình

Nhân tiện, vốn ban đầu thiên hạ 平天 chỉ là chỉ "trung quốc" 中国 tức là xứ ở giữa, được coi là "bờ cõi văn minh" do thiên tử (天子) cai trị, không bao gồm man di bên ngoài. Thiên tử sẽ cai trị thông qua các "chư hầu" (諸侯).

Thứ Tư, 25 tháng 7, 2018

Phân biệt 議決 [nghị quyết] và 決議 [quyết nghị]

Nhìn có vẻ giống nhau như cặp 該当 [cai đương] và 当該 [đương cai] vậy. Không phải anh em song sinh thì cũng cùng cha khác ông ngoại chắc.

議決
[名](スル)合議して決定すること。また、その決定された事柄。「満場一致で議決する」

決議
[名](スル)会議である事柄を決定すること。また、その決定した内容。「企業の誘致を決議する」
[補説]原則として、ある事柄について決定することを「議決」、決定した内容を「決議」と使い分けることもあるが、明確な根拠はなく、法令文でも両者の区別をせず使用する例がある。

Nhìn thì có vẻ lằng nhằng nhưng đây là cách dịch của Saromalang:

決議 = nghị quyết, ra nghị quyết

議決 = biểu quyết

Tóm lại 決議 [quyết nghị] thì lại là NGHỊ QUYẾT, còn 議決 [nghị quyết] thì lại là BIỂU QUYẾT.

Vậy "nghị quyết" và "biểu quyết" khác gì nhau?

Biểu quyết = họp bàn bạc với nhau rồi lấy ý kiến chung, thường là bằng cách biểu quyết tức là thể hiện tán đồng hay không

Ví dụ đưa ra một quy định mới rồi mọi người biểu quyết.

Nghị quyết = đưa ra quyết định về một sự vụ gì tại hội đồng (cuộc họp) hoặc nội dung của quyết định đó

Hai từ này đúng là gần nghĩa với nhau, đều là đưa ra quyết định bằng cuộc họp hội đồng và thường được dùng lẫn. Tuy nhiên, "biểu quyết" thường là việc quyết định về sự việc nào đó, còn "nghị quyết" thường là nội dung đã quyết định.

Tóm lại thì ngồi họp với nhau để bàn bạc rồi đưa ra ý kiến chung, rồi biểu quyết để ra quyết định gọi nó là "nghị quyết".

Ví dụ: Các nghị sĩ biểu quyết để quốc hội đưa ra nghị quyết.
Takahashi

Thứ Sáu, 20 tháng 7, 2018

"Bằng mặt mà không bằng lòng" tiếng Nhật nói thế nào?

"Bằng mặt mà không bằng lòng" trong tiếng Việt có nghĩa là gì?

Bằng mặt = tỏ ra bằng lòng, hài lòng ở ngoài mặt => tỏ ra thân thiết, hòa hợp
Không bằng lòng = trong lòng không hài lòng => thực tế thì lòng dạ khác nhau, không đồng lòng

"Bằng mặt mà không bằng lòng" = ngoài mặt thì tỏ ra thân thiết nhưng thực tế thì không đồng lòng với nhau

Tiếng Nhật: 表面上は親密に見えるが実際は異心を抱いている

Dịch từ tiếng Hoa 貌合神离 MẠO HỢP THẦN LI (bằng mặt mà không bằng lòng) ra.

Ví dụ:
Hai danh thủ vẫn dành những lời có cánh cho nhau trên truyền thông nhưng thật ra trong trạng thái "bằng mặt mà không bằng lòng", luôn tìm cách hạ bệ nhau.

Takahashi

"Úy lạo" nghĩa là gì?

Theo wiktionary:
úy lạo = Thăm hỏi để an ủi, động viên những người làm việc vất vả, khó nhọc hoặc bị tai nạn vì sự nghiệp chung. Uý lạo thương binh.

Nhưng mà có vẻ vẫn không rõ ngữ nghĩa của "úy lạo" lắm nhỉ?

Trong tiếng Nhật có từ 慰安(いあん, úy an), từ này nghĩa là "an ủi", tức là chữ hán có thể hiểu là "ủi an". Chữ 慰 ÚY thật ra là ỦI.

慰める nagusameru = an ủi

Chữ ÚY LẠO có từ tương đương trong tiếng Nhật là 慰労 irou tức là ÚY LAO.

Dưới đây là 2 định nghĩa của 慰労:

[名](スル)苦労をねぎらうこと。「試合のあとで選手たちを慰労する」「慰労会」

骨折りをねぎらうこと。慰めいたわること。 「 -会」 「奔走してくれた人々を-する」

Chữ này có thể hiểu là ỦI LAO tức là thăm hỏi an ủi người đã vất vả cực nhọc.

Tôi cho rằng, ÚY LẠO là chữ 慰労 ÚY LAO = ỦI LAO (an ủi khổ lao) này.

Ví dụ:

Đệ nhất phu nhân đã úy lạo thương binh tại bệnh viện dã chiến.

Diễn giải một cách dễ hiểu thì Úy lạo = thăm hỏi động viên (người đã khổ lao).

Người miền nam trước đây hay dùng từ này vì họ thường hào ngôn sảng ngữ và vốn từ phong phú. Dạo này thấy người ta ít dùng. Mai tôi cũng phải vô bệnh viện úy lạo một người bạn gãy ngón tay khi đang cố bấm nút share bài viết này vì thấy ... hay quá trong trạng thái ghế ngồi bấp bênh dẫn đến sụp đổ dây chuyền và máy tính "trụy lạc" trúng ngón tay.

Trong tiếng Nhật hay dùng từ 慰労会 (tiệc úy lạo) và 慰労金 (tiền úy lạo). Có khi tôi cũng phải chuẩn bị ít tiền úy lạo cho bạn nữa, sau khi bạn ra viện, thì tổ chức tiệc úy lạo nữa nhỉ?

Takahashi

Thứ Tư, 18 tháng 7, 2018

Quy tắc chat tiếng Việt trên smartphone khi không gõ được dấu

Khi bạn chat tiếng Việt mà không gõ được dấu tiếng Việt thì dễ gây hiểu nhầm, hơn nữa còn gây cho chịu cho người xem. Vì thế, Takahashi @ Saromalang chế ra bộ quy tắc này để áp dụng. Tôi cũng áp dụng khi chat với người quen. Thường thì tôi chat có dấu nhưng có một biến cố trong đời.

Đó là tôi sử dụng bàn phím bluetooth cho điện thoại để gõ cho nhanh. Hậu quả là không gõ được dấu tiếng Việt chưa tìm được cách khắc phục. Vậy phải gõ theo cách nào để vừa đơn giản, vừa dễ hiểu và không gây khó chịu?

Vì nếu gõ kiểu TELEX trên smartphone thì cũng khá oải, còn hay gõ nhầm do bàn phím mềm (soft keyboard) hơi nhỏ mà.

Bộ quy tắc chat tiếng Việt không dấu của Saromalang version 1.0


Quy tắc 1: Không gõ dấu "đ, â, ă, ê, ô, ơ, ư" => Thay bằng "d, a, a, e, o, o, u"

Quy tắc 2: Thay "d" bằng "z" hay "j"

Quy tắc 3: Gõ dấu huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng bằng ký tự ` ' ? ~ .

Ví dụ:

Đây là quy tắc gõ tiếng Việt không dấu của Saromalang khi chat trên điện thoại thông minh
=> Day la quy tac go~ tieng' Viet. khong zau' cua? Saromalang khi chat tren dien thoai thong minh

Với 3 quy tắc này, bạn sẽ tất thắng nhưng tôi còn phát minh thêm các quy tắc dưới đây để gõ nhanh hơn nữa.

Quy tắc 4: Gõ liền các từ ghép "nhật ký" => nhatky' hay nhatky

Nếu gõ dấu thì chỉ gõ dấu từ cuối mà thôi. Hoặc là không gõ dấu luôn. Ví dụ:
ngân hàng => nganhang
phát triển => phattrien
Việt Nam => Vietnam

Quy tắc 5: Gõ tắt các từ ghép bằng gạch nối ngang
Ví dụ: thời gian => th-gian, tình yêu => t-yeu, tình cảm => t-cam?
tiếng Nhật => t-nhat, liên lạc => l-lạc.

Lưu ý là đây là nếu bạn gõ bằng hard keyboard (ví dụ bluetooth keyboard) không phải là bằng soft keyboard trên điện thoại. Vì điện thoại mà gõ dấu gạch ngang - thì hơi bất tiện thì phải.

H-vong. cac ban. se~ chat h-qua? hon trong t-lai nhe'.
Takahashi

Thứ Hai, 16 tháng 7, 2018

Tên địa danh nào ngắn nhất Việt Nam?

Tôi nghĩ là thị trấn GÔI:
Gôi là một thị trấn thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, Việt Nam.
Thị trấn Gôi có diện tích 4,75 km², dân số năm 1999 là 6339 người, mật độ dân số đạt 1335 người/km². (Wikipedia)

Ga Núi Gôi ở thị trấn Gôi:

Hình ảnh ga Núi Gôi - thị trấn Gôi

Trường trung học cơ sở thị trấn Gôi. Hình ảnh: web trường.

Mong có một ngày được đến thăm nơi này, chắc đi tàu hỏa là được nhỉ. Hoặc từ thành phố Nam Định đi xe khách hoặc xe ôm, tôi đoán vậy. Tới đây làm gì thì tôi không biết.

Bạn nào biết nơi nào ngắn hơn nữa, xin hãy bình luận bên dưới nhé.

Nhân tiện, tên địa danh ngắn nhất Nhật Bản?

Đó là thành phố TSU (津、つ) chỉ một chữ cái tiếng Nhật.

ベトナム語最短地名(?):GÔI町(thị trấn Gôi)

Thứ Sáu, 13 tháng 7, 2018

Thi JLPT N1 có khó không?

Theo tôi thì không khó, mà tùy vào cách học và mục đích học. Hay nói thẳng ra, là quá dễ dàng. Vì tôi cũng không định thi N1 và N1 đối với tôi chỉ như cỏ rác mà thôi. Quan trọng nhất chẳng phải là CHÂN TÀI THỰC HỌC hay sao?

"Đốt bằng N1 thì có thì mà sướng tay? Dùng bằng N1 lót nồi thì có gì mà vinh dự?"
- Takahashi -

Vì sao bằng tiếng Nhật N1 chỉ là cỏ rác?

Lấy N1 để làm gì, nếu dịch một câu văn sơ cấp đơn giản cho xuôi cũng không làm được?
N1 có ích gì nếu chẳng phân biệt nổi từ vựng, thứ gì bổ nghĩa cho thứ gì, vì thế dịch ngữ pháp tùy tiện miễn sao cho bản thân khỏi nhọc công?
N1 có tác dụng gì nếu lấy xong mà đọc sách chuyên môn thì không hiểu nổi, hay chỉ dịch được đại khái?
N1 đem lại lợi thế gì nếu hành văn tiếng Việt quá dở, câu cú lủng củng, vốn từ nghèo nàn nên dịch như đấm vào tai người khác?
N1 có gì đáng để khoe, nếu điểm số thì lẹt đẹt?
Bằng N1 thì có gì mà đặc biệt để lót nồi hay nhóm lửa? Đốt bằng N1 thì có gì mà sướng tay?
Lấy N1 để làm gì, khi mà lấy xong thì vỡ mộng, không kiếm được việc ngon, bao nhiêu công sức bỏ ra như nước sông chảy về biển?
N1 thì có thì mà vinh quang, khi người có N1 thì nhiều, nhưng chẳng làm nên trò trống gì?

N1 chỉ là cỏ rác mà thôi. Tôi chẳng bao giờ có ý định lấy N1. Tôi học tiếng Nhật, rồi lên học đại học, rồi lên cõi "Niết Bàn" ở Nhật mà chẳng cần đến N1. Có người khuyên tôi lấy N1, tôi đều lắc đầu, vì N1 chỉ là hư danh mà thôi. Quan trọng là chân tài thực học, khả năng đọc sách, khả năng lĩnh hội đến đâu. Trong thời gian ở Nhật, tôi đã đọc thiên kinh vạn quyển (99% là rác), thì cần quái gì N1 để khoe khoang?

Tôi luyện được thuật ĐỌC NHANH (速読 SOKUDOKU tốc độc), nên có thể đọc kinh điển 500 trang, 20 vạn chữ chỉ trong 1 đêm (tất nhiên chỉ đọc trang đầu, trang cuối và mục lục ^^) nên đọc sách chỉ lướt như đi trên mây, đọc kỹ thì ít mà đoán ý thì nhiều, chỉ đọc những chỗ cần, nắm lấy đại ý mà chém gió, thì đi thi N1 có gì mà khó?

Nhưng tôi vẫn đi thi N1 để chứng tỏ


Thứ Tư, 11 tháng 7, 2018

Thế nào là "thống khoái" và cách dùng "thống khoái"

Tiếng Nhật: 痛快
[名・形動]たまらなく愉快なこと。胸がすくようで、非常に気持ちがよいこと。また、そのさま。「この上なく痛快な気分」「痛快な逆転ホームラン」
THỐNG KHOÁI nghĩa là cực kỳ khoan khoái, cực kỳ dễ chịu. "Khoái" là khoan khoái, dễ chịu, còn "thống" có nghĩa là đau nhưng ở đấy là cảm thấy một cách "thống thiết", tức là cảm thấy ở mức độ cao ngất.

Đây là một tính từ và trong tiếng Nhật là tính từ NA => 痛快な đồng thời cũng là một danh từ. Tiếng Việt và tiếng Nhật đồng nghĩa với nhau. Dạo này do vốn từ ít nên nhiều người cũng quên cách dùng từ này.

Ví dụ: Làm xong một công việc lớn cảm giác thật là thống khoái.

Cơn mưa rào thống khoái tới đúng lúc trời oi bức.

Chúng ta có thể nói là tâm trạng thống khoái, một sự kiện thống khoái, một người thống khoái vv. Ví dụ viết xong một bài chém gió tâm đắc, tâm trạng thật là thống khoái chẳng hạn. Thường thì đó là một bài văn thống khoái, đọc tới đâu thấy thích thú tới đấy.

Cảm giác thống khoái cũng gần giống như 達成感 [đạt thành cảm] là cảm giác mãn nguyện khi hoàn thành mục tiêu. >>Tra cách đọc 達成感

Nhân đà mà nói, vốn từ tiếng Việt của nhiều người không cao, nghe không hiểu từ, hoặc không biết cách dùng, hoặc không dám dùng. Trong ngôn ngữ, quan trọng là hiểu được gốc gác của từ ngữ, ngữ nghĩa của nó và mạnh dạn mà sử dụng. Như thế mới có thể viết văn hay, mới có thể HÀO NGÔN SẢNG NGỮ được.

Vì văn thể hiện khí chất của con người. Một người không học và mài giũa thì sẽ không có vốn từ tốt, không thể hào ngôn sảng ngữ.

Mà chí khí của con người thể hiện qua ngôn từ. Từ ngôn từ của bạn, người ta đánh giá được 90% chí khí của bạn.
Takahashi

Thứ Hai, 9 tháng 7, 2018

Chủ Nhật, 8 tháng 7, 2018

Điểm lại đề thi N2 tháng 7/2018

JLPT N2 07/2018 some hints.
>>JLPT N2 07/2017 listening script (聴解原文)
>>Xem đáp án N1 ~ N5 JLPT 07/2018

2018年07月新日本語能力試験N2
文字語彙

Listening Script N1 JLPT 07/2018

JLPT 07/2018 N1 level's listening script.
Đáp án chi tiết nghe N1 kỳ thi năng lực tiếng Nhật JLPT tháng 7/2018.

SCRIPT

2018年07月新日本語能力試験N1聴解原文

Dư âm thi JLPT tháng 7/2018: Script phần nghe N2

Xin hãy xem câu trả lời đúng JLPT kỳ tháng 7/2018 tại đây. Dưới đây là script phần nghe N2 kỳ tháng 7/2018.
JLPT N2 Listening Script 07/2018 exam. (2018年7月日本語能力試験N2聴解原文)

2018年07月新日本語能力試験N2 SCRIPT 聴解原文

Dịch "cờ bạc ăn nhau về cuối" ra tiếng Nhật

Chào các bạn. Làm thế nào thi đậu JLPT? Hãy luôn tự vấn lương tâm về việc này. Tôi có nói về cách học trong lần trước là học những từ liên quan đúng không nhỉ?

Như thế có thể là không đủ, mà phải học tất cả những từ liên quan, tức là "học cả chùm" (hoa thơm đánh cả cụm, hái khế hái cả chùm ^^). Đây gọi là học một biết mười.

Chủ đề lần này là CỜ BẠC và tiếng Nhật là 賭博 ĐỔ BÁC. [tobaku]


Có bao nhiêu từ trong tiếng Nhật chỉ việc đánh bạc?

Đó là:
賭博=とばく
博打=バクチ
賭け事=かけごと
ギャンブル=Gamble
賭ける=かける

Vậy có bao nhiêu từ chỉ cờ bạc trong tiếng Việt? Đó là cờ bạc, đánh bạc, cá cược, đánh cuộc, đánh cá, đánh bài vv.

Công cụ phổ biến nhất dùng cho cờ bạc là bộ bài Tây gọi là トランプ (tức là "playing cards", không phải Trang Cao Tổ Hoàng Đế nhà Đại Trang Donald Trump nhé).

Nhân nói về 賭ける=かける, đây là động từ nói về việc đặt cược hay đánh cược và dùng cho cả nghĩa bóng. Ví dụ:

命をかけた恋 = tình yêu đánh cược cả mạng sống

Tức là tình yêu mà bạn theo đuổi dù bạn có thể mất cả mạng sống (theo nghĩa đen hay nghĩa bóng).

人生をかけるゲーム = trò chơi đánh cược cả cuộc đời (bạn có thể mất hết khi tham gia mà lại thua trò chơi này)

Trong tiếng Anh bạn có thể hỏi: Are you gambling your whole life?

Nhưng theo ngu ý của tôi thì cuộc đời mới chính là trò cờ bạc lớn nhất. Tôi là một tay đánh bạc trong cuộc đời. Hơn nữa, tôi có phương pháp để chiến thắng.

Học tiếng Nhật cũng chỉ là gambling thôi, ai chắc bạn sẽ giỏi, hay sẽ thi đậu? Tôi có chém gió về cờ bạc tại Vì sao cờ bạc ăn nhau về cuối.

Bài tập hôm nay để các bạn "đặt cửa" là:

Câu 1: Dịch câu "Tôi có phương pháp để chiến thắng" ra tiếng Nhật.

Câu 2: Dịch câu "Cờ bạc ăn nhau về cuối" sang tiếng Nhật.

Nhân tiện, cờ bạc thì là 賭博 TOBAKU là được rồi, còn về cuối tức là về lúc cuối, có thể dịch là 最後のほうで hay 最後の時のほうで.

Còn "ăn nhau" có nghĩa là gì? Bạn phải biên dịch được ra ngôn ngữ bình thường trước rồi mới có thể dịch xuôi được. Vì bạn không thể dịch theo nghĩa đen "ăn lẫn nhau" tức là お互いを食い合う được, vì chưa chắc cách nói quán ngữ tiếng Nhật và tiếng Việt trùng nhau.

Đáp án:
(1) "Tôi có phương pháp để chiến thắng" => 私には勝つ方法がある。 (đánh dấu hiện chữ trắng)
(2) "Cờ bạc ăn nhau về cuối" => >>賭博

Thứ Tư, 4 tháng 7, 2018

Dư âm kỳ thi: Làm sao để thi đậu JLPT?

Theo tôi thấy, thông qua kinh nghiệm thực tế đi thi JLPT, thì thi đậu JLPT không khó, nhưng cũng không dễ với nhiều người, nhất là trình độ N1. Nhân tiện, mục tiêu của tôi khi đi thi không phải là đậu, mà là điểm cao. Để thực hiện mục tiêu này, cần phải có vốn từ lớn, phân biệt sắc thái giữa các từ tương tự tốt.

Ngoài ra, việc học theo giáo trình hay luyện thi sẽ không giúp ích mấy, vì nội dung thi thường không có trong giáo trình. Nhưng để giỏi tiếng Nhật, bạn vẫn phải học bằng sách và học tốt nội dung trong sách, vì bạn càng không học sẽ càng không giỏi và vốn từ càng không nhiều, đọc đề sẽ không được nói gì tới làm bài.

Như vậy, bạn có thể học kỹ giáo trình, sách giáo khoa nhưng vì đề ra các từ vựng ... không ở trong sách, nên bạn vẫn không đậu, hoặc điểm không cao.

Đây là lý do các lớp tiếng Nhật và các lớp luyện thi JLPT hiện nay thất bại. Dù dạy và học cực kỳ vất vả, nhưng không cải thiện được điểm thi. Thường thì học nhiều nhưng điểm thi vẫn ... y như lần đầu. Đây là vấn đề chung của cả người tự học lẫn người đi học trung tâm. Không phải bạn đi học trung tâm nhiều thì bạn sẽ thi đậu. Các trung tâm cũng quảng cáo rất "mờ ảo".

Thật ra, các bạn học trung tâm mà thi đậu là do bản chất các bạn ấy là thi đậu, chứ không phải là do trung tâm. Lấy ra một, hai trường hợp xuất sắc để quảng cáo cho trung tâm là không hợp lý.

Tình hình học tiếng Nhật hiên nay là học nhiều nhưng không giỏi, hoặc học thụ động như học sinh tiểu học, hoặc đơn giản là khủng hoảng cách học: Không biết học như thế nào sẽ giỏi và thi đậu.

Kết quả JLPT cấp 1 năm 2018 (năm cuối cùng duy nhất 1 kỳ tháng 12)

Làm sao để thi đậu JLPT?

Tôi chưa bao giờ gặp khó khăn trong thi JLPT và một số bạn cũng thế. Thi đậu là chuyện tự nhiên, còn được bao nhiêu điểm là do chân tài thực học.

Một đặc điểm quan trọng khi thi JLPT là sẽ ra từ vựng ... ngoài sách. Tức là, dù bạn có ôn "thiên kinh vạn quyển" thì vẫn lệch tủ. Thay vào đó, JLPT sẽ kiểm tra các từ vựng liên quan với các từ vựng trong sách.

Điều này không có nghĩa là bạn không học theo sách nữa, vì không học sách thì biết học gì? Sẽ trở nên "thất học" và sẽ càng không giỏi tiếng Nhật. Bạn vẫn phải học sách tốt.

Nhưng bạn phải học các từ liên quan với các "essential words" (các từ trọng yếu) trong sách. Đây chính là điểm khác biệt giữa các bạn thi đậu và các bạn thi không đậu.

Người thi đậu học cả các từ liên quan, phân biệt sắc thái các từ gần nghĩa.
Người thi không đậu chỉ học từ trong sách, (nên) không phân biết được sắc thái các từ gần nghĩa.

Vốn từ rộng là điều cần thiết khi đi thi JLPT. Vì thế, kỳ thi JLPT không đưa ra danh sách ngữ pháp hay từ vựng gì hết. Bạn phải có từ vựng phù hợp với các hoàn cảnh mỗi trình độ.

Tôi nhớ hồi mới học tiếng Nhật là thông qua tra từ (bằng kim từ điển) và CẢM NHẬN. Phải tra thẳng cả từ điển quốc ngữ tiếng Nhật và tra thêm Nhật -Anh để cảm nhận đúng về từ, và phải đọc câu ví dụ nữa. Bằng cách này, bạn sẽ thấy từ vựng được giải thích bằng các từ liên quan, và bạn sẽ tra các từ này nữa. Đây gọi là học bằng câu ví dụ và các từ liên quan. Chắc ngôn ngữ nào cũng phải học kiểu này mới có vốn từ rộng.

Danh sách từ vựng chỉ là xuất phát điểm, là cái cớ ban đầu để bạn tra từ và học từ. Ngoài ra, nếu bạn thích đọc sách, đọc manga, hay đọc báo vv thì bạn sẽ phải tự tra từ nữa. Mỗi khi bạn tra từ, sẽ lại có các câu ví dụ và các từ liên quan.

Như thế, bạn sẽ học một biết mười. Trong học tập hay cuộc sống, học một biết mười là kỹ năng rất quan trọng. Thật ra là bạn học một từ nhưng lại học thêm các từ liên quan nữa, nên thành ra mười phần kiến thức. Phải học như thế mới thành tài được.

Rốt cuộc là do đạo học. Học theo cách nâng cao vốn từ sẽ cần rất nhiều thời gian. Không phải ai cũng có nhiều thời gian như thế. Vì thế, cơ bản vẫn là đam mê thôi. Có những từ lẽ ra chẳng có lý do logic nào để bạn biết, nhưng bạn vẫn biết. Vì bạn đọc nhiều, dịch nhiều hoặc vì bạn muốn dịch chuẩn một câu sang tiếng Nhật nên bạn tìm tòi từ đúng để dịch.

Tóm lại, để thi đậu JLPT:
- Học thật tốt sách giáo khoa: Tra từ, dịch nghĩa, học các từ liên quan trong từ điển, phân biệt sắc thái
- Tạo một từ điển học tập riêng cho bản thân (trên máy tính)
- Học hết danh sách từ vựng mỗi trình độ có trên mạng
- Đọc thêm sách, báo lĩnh vực bạn yêu thích (tham khảo Read hoặc là tìm kiếm Internet)

POINT: Học từ vựng qua tra từ điển, câu ví dụ => tra và học từ liên quan

Nhân tiện, thi JLPT là định hướng học tập tuyệt vời nếu biết tận dụng. Nhờ có thi bạn mới biết là cần phải học gì, điểm mạnh, điểm yếu ở đâu. Nếu có thời gian tôi sẽ tiếp tục lớp Cú Mèo để học và luyện JLPT thông qua nâng cao vốn từ vựng, nền tảng ngôn ngữ vv. Thật ra ngay từ lớp sơ cấp tôi đã bắt mọi người phân biệt sắc thái và học từ vựng qua câu ví dụ rồi.
Takahashi

Thứ Hai, 2 tháng 7, 2018

Điểm lại đề thi N1 tháng 7 năm 2018 một thời để nhớ

Sau khi đọ kết quả và tính điểm gần đúng bằng công cụ của Cú Mèo Saromalang thì chúng ta hãy cùng điểm lại một số điểm nhấn về đề thi N1 kỳ thi JLPT tháng 7 năm 2018 nào.
Đáp án chi tiết và script phần nghe N1 xin xem tại đây.

内容:2018年7月日本語能力試験N1の解答 JLPT N1 past exam 7/2018

文字語彙

問題1
1 回顧=かいこ
2 偽り(へだたり、あせり、かたより、いつわり)=いつわり
3 嫌悪感=けんおかん
4 自粛=じしゅく
5 戒めたい(あたらめたい、なぐさめたい、きわめたい、いましめたい)=いましめたい
6 丘陵=きゅうりょう

問題2
7 設置、残留、所持、在庫=在庫
8 アウト、エラー、リスク、ダウン=リスク
9 切実な、堅実な、安泰な、安易な=堅実な
10 拒絶、駆除、遮断、隔離=遮断
11 がらりと、ずらりと、けろりと、ちらりと=がらりと(すっきり変わる様) Takahashi sai câu này
12 親しまれて、なだめられて、進められて、ゆだねられて=なだめられて
13 供述、言及、告白、通話=言及

問題3
14 すみやか(元の通りに、できるだけきれいに、できるだけ早く、決めた通り)=できるだけ早く
15 漠然(ぼんやりしていた、ごちゃごちゃしていた、あっさりしていた、はっきりしていた)=1
16 妨害する(だます、いたずらする、からかう、じゃまする)=4
17 エレガント(活動的な、地味な、上品な、個性的な)=3
18 つかの間の(短い、久しぶりの、充実した、十分な)=1
19 しくじる(緊張して、失敗して、遅刻して、誤解して)=2

問題4
20 巧み
21 配属
22 乗り出す 労働不足が悪化したため政府は調査に乗り出した Takahashi sai câu này
23 面識=顔を知っている
24 抜粋 論文の一部を抜粋する
25 心当たり なぜ木村さんが私を嫌っているのか心当たりがない

文法

問題5
26 と引きかえに
27 べく、とも、ばこそ、にせよ=べく
28 なにも、ちっとも・・・=なにも
29 ことか、ものだ・・・=ことか
31 かと思えば(猫、そうだと思って、そうかと思えば、こうだと見て、こうかと見れば) Takahashi sai câu này
うちの猫と言えば、甘えてきたり、____、読んでも聞かず、どこかに行ってしまったりして本当に気まぐれだ。
32 のをいいことに、のがよければ、といいものだから、とよさそうなのに
33 面接:なぜ新聞記者から先生になるのか
させていただく、させてくださる、きいていただく、きいてくださる=させていただく
34 しかあるまい(=しかないだろう)
A社との条件はあっていないが根気よく交渉し続けるしかあるまい。
35 ばよかったのに
A:Xモールにいることを見たよ。
B:声かけてくれればよかったのに。

問題6
36 妹は、来月初めに3引っ越しするのを機に、4今まで欲しいと思いつつ★1買えずにいた2ソファを買うことにした そうだ。
37 私のふるさとは、自然に囲まれたのどかなところ 4である1といえば★3聞こえはいいが2要するに 周りは田んぼしかない、ただ田舎町だ。
38 入社二年目でプロジェクトのリーダーに氏名されたときは 1こんな大役が 4私ごとき ★2新人に務まるのかと 3不安でいっぱいでしたが 先輩方の厳しくも温かいサポートのおかげで、無事に務めることができました。
39 都市開発事業、地域住民の同意を得る 2こと 1なしに ★4進めた 3 として、 北市の住民が市長を訴えた。
40 政府が発表した数字によると、昨年4月1日 2現在 ★3のおける 415歳未満の人口 1は 一昨年と比べて15万人少なく、過去最低となった。

問題7
41 ように
42 やつ、やつら、そいつら、・・・=やつ
43 ゲラを見る係、小説系=とはいえ
44 (外す)べきではなかった
45 から、のに、だろうか=1ばん

読解

問題8
46 2番 目標は必ず必要だ
47 すなわち、微笑みがピークに達する一秒ほど前に視線が伏せられると恥じらいの表情として見えるが、ピークに達した直後に目が伏せられるとそれは喜びの表情と判断されるというのだ。
48 1ばん
49 相手の発言は真実だと思ってそれを基準に判断するから

問題9
50 多くの読者の支持があったということ
売れたからいい本だとも言えない
4ばん いい本だと保証されるわけではない
51 どのような分野であれ、よいものとは何か、それを見極める目が要求される
4ばん 専門分野以外でもよいものを見決められる能力 ĐÚNG
2ばん 見出せる SAI× Takahashi sai câu này
52 推薦した作品が受賞するのは、その価値観がいわば受賞することだともいえよう。
3ばん 自分の価値観が認められたと感じられるから
53 それは違う
54 新入社員も含めてすべて年俸制にして、それぞれが稼ぎだした利益に応じて査定するシステムに変えたのです
会社の利益が増えれば全体の年俸の資源は増えますが、それはプラス評価をした人だけに配分します
55 会社の利益より
56 たとえば・・・その前の「こう思う」の部分も承認しなければならない
58 勝ち負けを決めることが主なる目的ではない
よりよい解決を求めるためである
1ばん 根拠の承認を迫る型式に則って発言する

問題10 タレント、芸能人のプライバシー、個人生活をわざと公開 59~62

問題11 AとBの意見(絵を描く楽しみ) 63~64

問題12 漁業、なぜ孤立した島に研修させるのか、言葉より実際の学習 65~68

問題13 ナイニさんのボランティア参加(花の世話、夏まつりなど) 69~70

聴解

 この男の人はこの後まず何をしなければなりませんか。
男:講演会どうしましょう。もし中止にするなら、申し込まれた方にすぐ連絡しないといけないですね。
女:うーん、差し当たり、ほかの二人の講演者の方に連絡して、講演時間を延長できるかどうか聞いてもらえない?
男:はい。分かりました。
女:本当は代わりの人を探せたらいいんだけど、来週だから、ちょっと厳しいよね。
男:そうですね。もし延長がダメだったら、時間どうしますか。
女:その場合は、空いた時間で何ができるか考えよう。

 男の人は、会社員が自宅で仕事をすることになったら、どんな利点があるかと言っていますか。
それより会社で仕事をしていると、会議が入ったり、電話がかかってきたりして、自分の思うように仕事を進められないことがあるでしょう。そういうことが少ない環境で仕事できるのがメリットだと思うなー。

 大学で先生が話しています。

男:麦は昔から世界の各地で様々な食品の原料として使われてきました。最近ある研究チームが世界各地の野生の麦と栽培されている麦のDNAの配列を比較しました。その結果、現在世界各地で栽培されている麦がヨーロッパとアフリカに挟まれた地域の野生の品種に近いことを突き止めました。元々、野生の麦は、実が落ちやすく栽培には向かないですが、実が落ちにくい突然変異の麦がこの地域で生まれ、それが世界各地で栽培されるようになったと考えられます。

先生は何について話していますか。
1現在栽培されている麦の始まり
2麦に関する研究の展望
3麦を分類する方法
 4麦の突然変異の仕組み


男:新しい会計システムの導入、どうやら一か月ほどずれ込むようですよ。
女:1じゃ、予定通りですね。2遅れるのは困りますね。 3えっ、早まるんですか。

男:中田さん、先日のご依頼の件、なかなか厳しいんですが、中田さんからのお話と合ってはね…
女:1ご無理をお願いして申し訳ありません。2やはりだめでしたか。3私はオーケーしにくいですが。


赤山
青山
緑山
白山

Hên xui, hên xui ^^ Thiện tai, thiện tai!!
Takahashi

Chủ Nhật, 1 tháng 7, 2018

Kết quả thi Nô (JLPT) của Takahashi kỳ tháng 7/2018

Tôi đậu rồi! Đây là lần thứ 3 tôi thi đậu JLPT (chưa trượt lần nào) nên lần này sẽ rửa tay gác kiếm. Từ nay sẽ chuyển sang ... JTEST ^^
Lần 1: Thi vào năm 2009 tại Nhật, vẫn còn theo thể thức cũ (các cấp 4, 3, 2, 1)
Lần 2: Thi vào khoảng năm 2013 tại VN, cấp độ N1 (được điểm tối đa phần đọc nhưng suýt liệt nghe do âm thanh quá tệ)
Lần 3: Lần này tháng 7/2018, tôi có ghi lại câu trả lời lên phiếu dự thi

Đây là kết quả lần này (dùng công cụ tính điểm JLPT gần đúng):

My score (Điểm của tôi): 167
Score range with maximum error (Dải điểm sai số tối đa): 141 ~ 180
Score range with average error (Dải điểm sai số trung bình): 153 ~ 177
Predicted Result / Kết quả dự đoán: Pass (合格, Đậu)

Tôi đã so kết quả với đáp án China như sau:

KIẾN THỨC NGÔN NGỮ
Phần chữ và từ vựng: Đúng 23/25 câu (sai 2 câu)
Phần ngữ pháp: Đúng 19/20 câu (sai 1 câu)

=> Phần kiến thức đúng 42 / 45 câu

ĐỌC HIỂU
Đúng 24/25 câu

NGHE HIỂU
Đúng 31/35 câu

Phần nghe hiểu tôi lại đúng khá nhiều mặc dù như tôi đã chia sẻ trong nhật ký đi thi JLPT là tôi chỉ nghe được 50%, còn lại là đoán thôi. Tôi nghĩ là chỉ đúng 50% là cùng, không ngờ lên tới 89%. Mà tôi còn chẳng luyện nghe lấy một phút.

Chứng tỏ việc luyện khả năng phán đoán trong chiến lược luyện nghe hiểu của Saromalang quả thật là ĐẠO học tiếng Nhật. Lưu ý là khi thi tôi vừa nghe vừa ghi chú nữa nhé.

Thấm thía câu nói: Quan trọng là học ĐẠO (nền tảng kiến thức) chứ không phải là học THUẬT (mẹo mực thi cử) trong Tùy cơ ứng biến.
Takahashi

Nhật ký thi "Nô" (JLPT) tháng 7 năm 2018

Các bạn thi Nô xong cảm tưởng thế nào? Tôi nghe quanh đây đầy tiếng than khóc, dự cảm là chẳng lành. Dưới đây tôi ghi lại nhật ký thi Nô cấp độ N1 lần này.

Đánh giá chung là đề khó, không thể trúng tủ. Mặc dù tranh thủ ôn hơn 200 mẫu ngữ pháp N1 nhưng không hữu ích gì mấy. May mà không ôn từ vựng (vì đợt này bận, không có thời gian) hay luyện nghe gì cả.

Cơ bản là phải có vốn từ nhiều và năng lực thực sự mới có thể thành công. Tôi làm tới phút chót mới có thể làm xong, chứng tỏ là đề dài. Đấy là tôi đọc nhanh và còn đọc lướt nữa, với các bạn đọc chưa nhanh, hay không đọc lướt, thì khả năng không làm kịp hết là rất cao. Tôi còn dư đúng 3 phút, phải xoay sở mới kịp chép lại được câu trả lời.

Rút kinh nghiệm sang phần nghe, nghe xong câu nào là ghi lại đáp án liền.

Và nói chung thì đúng như chiến lược từ trước khi đi thi là tùy cơ ứng biến là chính, vì JLPT đã thay đổi cách ra đề không thể học tủ được nữa (xem ở bài Đáp án JLPT kỳ thi 07/2018).

Dưới đây tôi ghi lại nhật ký đi thi một chút.

Thời gian có mặt tại địa điểm thi là 8:00 sáng, 9:00 bắt đầu thi, tuy nhiên có bạn gần sát giờ thi mới vào phòng. Vì đường đi cũng có thể xa hơn dự kiến nên tốt nhất là các bạn nên thử đến đó trước ngày thi một lần, hoặc tới sớm. Thời gian tập trung 8:00 sáng là hợp lý, thường thì 8:30 giám thị coi thi mới bắt đầu rục rịch làm thủ tục cho nhập phòng thi.

Thời gian thi N1 là thi phần kiến thức ngôn ngữ và đọc hiểu chung từ 9:00 tới 10:50. Sau đó nghỉ giải lao từ 10:50 tới 11:20 để mọi người ăn uống, đi vệ sinh, giải lao vv. Mọi người phải vào phòng thi khoảng 11:10 để điều chỉnh âm lượng vv để đúng 11:20 là bắt đầu thi nghe. 12:20 là kết thúc phần thi nghe.

Sau mỗi phần thi, giám thị sẽ thu tờ phiếu ghi câu trả lời (trước khi bắt đầu thi mỗi phần bạn ghi số dự thi, đánh dấu số dự thi dùng cho máy đọc tự động, ghi tên và ngày tháng năm sinh) và bạn phải ký tên xác nhận vào tờ danh sách thí sinh dự thi cho mỗi phần thi.

Cơ sở vật chất

Lần này thi ở trung tâm ngoại ngữ ĐHKHXHNV nằm trong đại học bách khoa ở Linh Trung, Thủ Đức, đường cũng không quá khó đi và có thể tra được. Cơ sở vật chất khang trang, khi thi nghe không bị tiếng ồn bên ngoài vì là trong làng đại học. Âm thanh các phòng không bị vang sang nhau.

Có khá nhiều bạn đi thi, đa phần là trẻ. Nhưng cũng có một số lượng người đi làm, thậm chí có tuổi. Nhưng tóc bạc phơ thì chắc chỉ có mình tôi!

Một số ảnh đăng tại album Đăng ký thi JLPT tháng 7/2018.

Về tổ chức thi thì không có vấn đề gì phải bàn. Mỗi phòng thi có 2 giám thị, bên ngoài cũng có giám thị hành lang. Nhìn chung không có hiện tượng quay bài hay gà bài. Mỗi phòng có 40 người, mỗi bàn dài ngồi hai người cách xa nhau.

Mọi người phải bỏ hết ba lô, cặp sách, điện thoại lên bục giảng. Vì thế, ai không mang ba lô hay cặp thì để điện thoại lên bàn giám thị. Chỉ được để bút chì, tẩy, đồng hồ trên bàn, không được để bút bi. Để chai nước không sao. Nói chung thì cũng không phải là quá khắt khe, nếu bạn để điện thoại trong túi quần mà không bị phát hiện cũng không sao. Điện thoại phải tắt báo thức, tắt âm, tắt nguồn vì nếu không sẽ phạm quy.

Về thiết bị âm thanh phần nghe thì lần này là đĩa CD và dùng radio cát xét có chạy CD, dùng hệ thống loa treo tường của phòng học. Nên chất lượng âm thanh nhìn chung là ổn nhưng âm thanh vẫn không trong, nên không nghe rõ từ. Nhiều câu không nghe rõ nên đánh hên xui tầm 50%.

Phần thi từ vựng, ngữ pháp, đọc hiểu

Tôi nghĩ là phần này khá khó. Tôi phải làm tới hết giờ mới xong, mà đấy là phải gia tốc và đọc lướt. Như vậy, sẽ có nhiều bạn đi thi chỉ để ... tham khảo. Vì làm hết bài đã khó, nói chi là làm đúng. Từ vựng cũng có nhiều từ tương đối khó, mà ngay cả tôi cũng chỉ đoán mà thôi. Phần ngữ pháp thì chọn dấu sao đúng được nói là khó và có một câu tôi cũng phân vân.

Các bài đọc dài và tương đối khó, đặc biệt các câu hỏi cũng không dễ phân biệt là hai câu khác gì nhau, nói gì tới làm đúng. Riêng đọc câu hỏi đã tốn khối thời gian rồi.

Bạn có thể mang phiếu dự thi vào nên có thể ghi câu trả lời lại lên phiếu dự thi. Tôi làm xong hết mới chép ra, nên suýt không kịp. Bạn nên rút kinh nghiệm là làm xong câu nào thì ký hiệu luôn.

Tôi có ghi lại một số câu phân vân.

丘陵 khâu lăng => đọc là きゅうりょう câu này làm đúng

しくじる => 物事に失敗する。 「試験に―」 câu này làm đúng (đoán)

つかの間 => 短い時間 câu này đúng
(thoáng chốc)

なだめる hay ゆだねる: dùng phương pháp loại trừ còn hai từ này và không nhớ nghĩa nhưng yudaneru quen quen và cảm giác không phải nên chọn nadameru. Nhân tiện, trong bài đọc về sau có từ yudaneru xuất hiện nhỉ!

Tóm lại là bị cơn tức giận nhưng nhờ có người bạn nadameru mà dịu đi
なだめる
【宥める】
《下一他》物事が荒立たないように、怒っている人、くやしがっている人などをたしなめたり慰めたりする。穏やかに済むようにとりなす。 「子供を―」
=> dỗ, dỗ dành nên đáp án này đúng. (Do HÊN ^^)

がらりと/ずらりと/けろりと/ちらりと
chirarito thì tôi nhớ loáng thoáng là ... "loáng thoáng", còn zurarito là xếp thẳng tắp thì đó, nên dùng phương pháp loai trừ còn gararito và kerorito, tôi chọn kerorito nhưng bị sai. (Do XUI!)

Câu này đại khái là 久しぶりに故郷に帰ると、街並みが・・・変わっていて驚いた。
Tức là quê hương thay đổi hoàn toàn nên ngạc nhiên.
がらり = 事態が急激に、すっかり変わるさま。「人柄ががらりと変わる」
nên đáp án đúng là gararito.

Về phần thi chọn dấu ★ thì có câu này phân vân:

政府のレポートによると昨年4月1日 ___ _★_ ___ ___ 一昨年に比べて15万人も少なくなった。
Các từ để sắp xếp:
現在

15歳未満の人口
における

Hừm, phiền đây! Tôi xếp là 現在 における 15歳未満の人口 は
Lý do là vì thời điểm báo cáo là năm ngoái, mà so là với năm trước nữa, nên 現在 sẽ đứng đâu? 現在 thì có thể làm trạng từ nhưng chẳng có thời điểm nào là "hiện tại" ở đây cả.

Nên tôi chọn là 昨年4月1日現在 tức là báo cáo này là vào ngày 1 tháng 4 năm ngoái và trong thời điểm hiện tại khi đó thì dân số trẻ bị ít đi so với năm trước nữa.

Cũng như khi bạn viết lý lịch (履歴書) xin việc thì bạn ghi là ví dụ 2017年4月1日現在 tức là bạn viết nó vào ngày 1 tháng 4 năm 2017 và thông tin trong đó là ở thời điểm hiện tại khi bạn viết.

Vì cũng chẳng còn thấy cách nào hợp lý. Nếu bạn có cao kiến, xin hãy comment bên dưới.

Phần đọc hiểu thì tôi nghĩ là mình làm ổn, không thắc mắc gì cả. Tôi vừa đọc nhanh, vừa đọc lướt nhưng làm theo đúng thứ tự từ trên xuống, và đọc bài rồi đọc từng câu hỏi và làm từng câu hỏi đúng như chiến lược thi đọc hiểu mà tôi đã viết, vì thế, tôi có thể tăng tốc để về đích. Nói thật, tôi chỉ đọc qua loa nắm đại ý là chính.

Nhưng riêng về các câu hỏi và nội dung thì tôi không có thắc  mắc gì, nếu làm sai thì không phải do tôi không đọc hiểu mà là do cách hiểu khác nhau mà thôi.

Nhân tiện, các bài đọc hiểu này khá là ... lan man, nên nếu chỉ đọc văn mà không nắm đại ý, mục đích sẽ bị lạc lối trong rừng văn và không thoát ra được, sẽ tẩu hỏa nhập ma. Phần lớn bài viết chỉ là minh họa, vẽ thêm cây vào rừng mà thôi. Thấy cây mà không thấy rừng, thấy câu mà không thấy đại ý sẽ thất bại toàn tập.

Phần thi nghe

Phần thi nghe thì nghe băng CD, dùng đài chạy CD xịn, tuy nhiên âm thanh vẫn hơi bị ồn và dội thì phải, hay chỉ mình tôi cảm thấy thế? Một số bạn cũng kêu là âm thanh hơi bị dội. Nói chung là âm thanh đã cải thiện so với cái thời "vỡ nát" nhưng một câu, từ không nghe rõ được. Những câu hỏi nhanh đáp gọn mà không nghe được câu đầu, hay từ chìa khóa thì cơ bản là hên xui.

Tôi nghĩ là một nửa là đánh hên xui, còn những bài nghe được thì nói chung là không quá đánh đố, có thể nghe và làm đúng được. Như vậy, về nội dung nghe thì tôi nghĩ không khó, chỉ khó là chất lượng âm hơi bị dội, đan vào nhau chút xíu.

Nhưng cơ bản là chấp nhận được. Tôi nghe thì cũng chẳng giỏi lắm, và cũng chẳng luyện chút nào, thì còn trách được ai?

Nhưng tôi nghĩ là lần này vẫn nghe được một nửa, nên chắc sẽ không bị liệt nghe. Mà trong tiếng gió lao xao ở trường thi, có một số bạn sợ bị liệt phần nghe, chứng tỏ là quả thật là các bạn cũng không nghe được rõ.

Cũng phải nói thêm, bài mà tôi nghe được thì tôi cũng không thật sự nghe được, mà chỉ là nghe MẠCH CHUYỆN, ĐOÁN ĐẠI Ý mà thôi. Cũng như đọc hiểu, bạn phải nắm được đại ý, chứ còn nghe từng câu, nói qua nói lại sẽ rất dễ bị "cài" ^^ (đối với các bạn chưa quen thôi chứ thật ra thì không cài lắm đâu).

Vì thế, về cơ bản tôi không cố nghe rõ từng câu. Chỉ là tùy cơ ứng biến. Nhưng phần hỏi nhanh đáp gọn thì ngắn quá, còn không hiểu họ đang nói về chủ đề gì, nên vấn đề là ... HÊN XUI. Mà tôi có cảm giác là xui nhiều hơn hên.

Dù sao thì kỳ thi đã kết thúc. Lần này lệ phí cũng tăng lên 500k. Tổng kết chi phí:
- Bộ hồ sơ 30k
- Lệ phí 500k
- Sao chứng minh thư 1k
- Mua chai nước hôm thi 10k
Tổng: 541k

Với lại công đi lên tận Thủ Đức nữa, thì không tính, vì đi thi lòng vui phơi phới, thì tính toán thiệt hơn làm gì. Lần sau, tôi sẽ đi thi ... JTEST!

Nhật ký đi thi của mọi người là thế nào nhỉ? Có chuyện thì đáng nhớ không? Khí phách còn hay ... đã mất? ^^ Xin hãy comment bên dưới cho mọi người tham khảo.

Đáp án kỳ thi JLPT tháng 7 năm 2018 (kì thi "Nô" lệ tiếng Nhật)

Ngày thi: Ngày 1 tháng 7 năm 2018, chủ nhật >>Nhật ký thi "Nô" tháng 7/2018
>>Điểm lại đề thi N1 tháng 7 năm 2018 một thời để nhớ
>>Điểm lại đề thi N2 tháng 7 năm 2018
>>Điểm lại và phân tích đề thi N3 tháng 7 năm 2018

Làm thế nào để thi tốt? Hãy nghiên cứu kỹ cấu trúc kỳ thi và có chiến lược thi tốt. Bài viết này là để đăng kết quả kỳ thi JLPT kỳ này ngay khi có trên mạng. Tại đây chỉ có đáp án không có đề thi (đề thi sẽ bị thu lại).

Chú ý khi đi thi: Để có thể đọ đáp án và tính điểm bạn cần phải ghi lại được câu trả lời của mình. Tuy nhiên, nhiều khả năng bạn không được mang giấy nháp vào phòng thi do đó hãy ghi lên phiếu dự thi chẳng hạn (vì thường phiếu dự thi sẽ cầm về). Nên ghi theo thứ tự câu hỏi ví dụ câu 1 phần kiến thức ngôn ngữ bạn chọn đáp án 3 thì có thể ghi là K1.3 chẳng hạn. Sau khi đi thi về xem ở đây có kết quả chưa và tính điểm của bản thân.

RA MẮT CÔNG CỤ TÍNH ĐIỂM JLPT MỚI 2018!!

Kiến thức về JLPT
>>Chiến lược thi JLPT điểm cao (2012)
>>Mọi điều bạn cần biết về JLPT (Sea)
>>Cách tự tính điểm JLPT gần đúng (2012)
>>Cách ghi lại câu trả lời khi đi thi JLPT
>>Tham khảo: Đáp án kỳ thi JLPT tháng 12/2017
Chuyên đề JLPT
>>Kỳ thi JLPT đã thay đổi cách ra đề như thế nào?
>>Chiến lược thi đọc hiểu (DOKKAI) tốt là gì?
>>Chiến lược thi nghe hiểu (CHOUKAI) và 3 BÍ QUYẾT nghe hiểu

ĐÁP ÁN KỲ THI NĂNG LỰC NHẬT NGỮ THÁNG 7/2018
JLPT EXAM ANSWER 7/2018 

Đáp án từ N1 tới N5 (theo thứ tự N1, N2, N3, N4, N5). Ghi chú: Đây chỉ là đáp án tham khảo, không đảm bảo chính xác 100%. Ngoài ra, điểm còn được chuẩn hóa. Tham khảo cách tính điểm JLPT gần đúng của Saromalang ở bài viết trên.

Có thể có truy cập tập trung số lượng lớn nên các bạn cần kiên nhẫn. Khi có đáp án nào sẽ thông báo tại Facebook Page của Saromalang nên các bạn hãy like page sẵn.

Các đáp án đã đăng (ngày đăng)
N1: 14:30 cùng ngày (đáp án tự làm, trừ nghe) / 18:00 đáp án China từ vựng, ngữ pháp / 18:15 đáp án China đọc hiểu, nghe hiểu
N2: 16:30 cùng ngày
N3: 16:40 cùng ngày
N4, N5: Ngày 3 tháng 7