Từ điển chữ Tôm tức là từ điển chữ Nôm mới, chỉ dùng các chữ Hán đã có sẵn để ký âm tiếng Việt, nói cách khác, là chuyển mọi âm tiết tiếng Nhật sang chữ tượng hình. Nói nhiều thì dài dòng căn tự, nên đây là ví dụ minh họa:
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
光‟彩‟底'水'印'天'、
城建'煙'碧'岳'晒'影'黄'
Từ điển dịch hai câu trong Truyện Kiều sang chữ kanji (hán tự) như trên, với ý nghĩa tương đương. Trong câu trên thì có "long lanh" là một từ láy, trong từ điển chữ Tôm, thì từ láy thường được viết theo dạng 〇‟〇‟ tức là dấu nháy kép ngược, và những chữ viết kiểu này thường tùy theo ngữ cảnh, cụm từ mà nó tạo ra mà thay đổi cách đọc, ví dụ:
dở ẹc 拙'極‟, lạ hoắc 異'極‟
Tất nhiên là để làm được như trên tức là dịch một cách tự động thì phải có CƠ SỞ DỮ LIỆU, tôi đã xây dựng cơ sở dữ liệu này. Ví dụ "bóng vàng" phải là bóng màu vàng, chứ không phải bóng của kim loại vàng. Nhưng nếu mà "nghìn vàng" thì lại phải là kim loại vàng, tức là 金':
Lòng này gửi gió đông có tiện,
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
心'此'送'風'東有'便、
千'金'請'送'到'岳'燕`
Từ điển cũng có thể dịch các bài thơ gốc Hán sang tiếng Hán tương ứng:
Cao nguyên thủy xuất sơn hà cải,
Chiến địa phong lai thảo mộc tinh
高原水出山河改、
戦地風来草木腥
Tức là: Nước chảy ra từ cao nguyên làm thay đổi núi sông, Gió từ chiến địa thổi tới làm cây cỏ bốc mùi tanh
Trong trường hợp này, chữ "mộc tinh" dễ bị phiên thành 木星 tức là Sao Mộc theo thuật toán. Vậy phải làm sao? Khi chọn chữ "tinh" (trường hợp này là 腥 tức là tanh), nếu chỉ xét chữ ngay cạnh là "mộc" thì sẽ chọn sai, nên phải xét cả chữ trước đó, do đó, phải viết thành thuật toán để làm điều này, để tăng tính chuyển đúng cho từ điển chữ Tôm.
Dưới đây là một số đoạn thơ viết bằng chữ Tôm, tức là chữ Nôm mới.