Chủ Nhật, 26 tháng 2, 2017

Vì sao gọi nghề khuân vác là "cửu vạn"?

Tại sao gọi nghề khuân vác là "cửu vạn"? Phải chăng vì họ kiếm được 90,000 đồng/ngày? ^^
Nghề khuân vác, bốc vác hàng hóa thường gọi là "cửu vạn" ví dụ "làm cửu vạn kiếm sống", "làm cửu vạn ở bến xe khách". Ở bất kỳ chợ đầu mối, bến tàu, bến xe nào thì cũng sẽ có cả đội ngũ làm cửu vạn, thậm chí là cửu vạn chuyên nghiệp. Ngày nay có cả các công ty, trung tâm cho thuê cửu vạn, thường là văn phòng ở ngay bến xe. Gọi là văn phòng chứ thường là một cái bàn, một cái ghế, quyển sổ, cây viết và một ấm trà đá. Rất nhanh, gọn, nhẹ.

Ngày xưa thì gọi là "phu khuân vác", "phu" có lẽ là chữ 夫 [phu] chỉ người đàn ông, nhưng trong tiếng Nhật là 夫 otto tức là "người chồng". >>Đại từ nhân xưng tiếng Nhật

Sở dĩ gọi là "cửu vạn" là gọi theo một quân bài trong bài tổ tôm, trong đó quân cửu vạn có hình người bốc vác.

"Cửu vạn" viết là 九萬 tức là "chín vạn, chín mươi ngàn", đây là quân bài "90k":


Chữ 萬 là chữ cổ vẫn dùng ở Hong Kong hay Taiwan. Trong tiếng Nhật hiện nay viết là 万 [vạn] và đọc theo tiếng Nhật là "man", thường là chỉ 10 ngàn yen.
>>Tiền xu và tiền giấy Nhật Bản
"Ichi man" hay "một man" nghĩa là một vạn yên = 10,000 yen.

Trong hình trên thì cạnh "cửu vạn" là "bát vạn" (八萬, 80k) vẽ hình con cá, bên cạnh đó nữa là "thất vạn" (七萬, 70k), tiếp theo là "lục vạn" (六萬, 60k), ngũ vạn, tứ vạn, tam vạn, nhị vạn, ... Các chữ này đều hơi cách điệu một chút nên phải tinh mắt mới thấy ^^ Ngoài ra, chữ cổ, sách cổ thì lại viết từ phải sang trái chứ không phải từ trái sang phải như ngày nay. Vì thế, biển hiệu cũ ngày xưa thường đọc từ phải sang trái tức là ở trên viết là 萬九 [vạn cửu] nhưng đọc từ phải sang trái nên thành "cửu vạn". Có lẽ là do ngày xưa viết bằng mực tàu, tay áo lại lụng thụng, nên viết thế sẽ vệ sinh hơn chăng?

Ở Nhật thì người ta ít khi dùng sức người mà thường dùng dụng cụ như xe vận chuyển hàng hóa (台車 daisha):


Còn nếu hàng hóa quan trọng thì thuê hẳn "người vận chuyển" (transporter) cho chuyên nghiệp:

"Cửu vạn" nghĩa là gì?

1. Một quân bài trong tổ tôm vẽ hình người phu khuân vác
2. Chỉ người làm nghề khuân vác, bốc vác hàng hóa
Takahashi

Thứ Bảy, 25 tháng 2, 2017

Cám ơn thì dùng ありがとうございます hay ありがとうございました?

Tại lớp luyện thi Cú Mèo JLPT  N4/5 thì có thắc mắc sau:
Cảm ơn là ありがとうございます hay ありがとうございました?

Giải thích: Cả hai đều gần như nhau. Tuy nhiên ありがとうございます là thì hiện tại đơn giản tức là "Tôi cảm ơn anh/chị ạ" còn ありがとうございました là thì quá khứ tức là "Tôi cảm ơn anh/chị vì chuyện lúc trước ạ". Nếu bạn cảm ơn cho một sự việc quá khứ thì dùng ありがとうございました nhưng dùng ありがとうございます vẫn được.

Hai cách nói này có thể thay thế cho nhau.

すみません và すみませんでした
Cũng đều là xin lỗi nhưng cũng như trên すみません là thì hiện tại đơn giản còn すみませんでした là thì quá khứ đơn giản.
すみません = Tôi xin lỗi anh/chị ạ
すみませんでした = Tôi xinh lỗi anh/chị vì chuyện lúc trước ạ / vì chuyện tôi đã làm ạ

Tuy nhiên, すみません còn dùng để nhờ vả hay kêu gọi chú ý thường ở dạng すみませんが・・・
すみませんが、通ってもいいですか。 Xin lỗi nhưng tôi đi qua được không ạ?
すみませんが、駅までの道を教えていただけませんか。 Xin cảm phiền nhưng anh/chị có thể chỉ đường tới ga cho tôi được không ạ?

Trong trường hợp này すみません dùng như "Excuse me" (Xin lỗi/Xin thứ lỗi nhưng ...) trong tiếng Anh và không thể dùng thì quá khứ.

Quiz của Saromalang để các bạn mơ mộng
① Phân biệt 失礼します và 失礼しました
(失礼=しつれい)
② Phân biệt お邪魔します và お邪魔しました
(邪魔=じゃま)
Takahashi

[Từ vựng N4/5] Nhóm từ "học, học tập"

勉強する benkyou suru [miễn cưỡng]
Từ học cơ bản nhất là 勉強する (べんきょうする), kanji là "miễn cưỡng". Sắc thái là học một cách miễn cưỡng, bắt buộc, thường là tới trường lớp để học và có thầy cô dạy thì gọi là 勉強する。
Ngoài ra nhóm từ "học tập" còn có:

学ぶ manabu [học]
Ý nghĩa 学ぶ
1 勉強する。学問をする。「大学で心理学を学ぶ」「同じ学校で学んだ仲間」
2 教えを受けたり見習ったりして、知識や技芸を身につける。習得する。「よく学びよく遊べ」
3 経験することによって知る。「苦労して人間のすばらしさを学んだ」
4 まねをする。
http://dictionary.goo.ne.jp/jn/209210/meaning/m0u/
習う narau [tập]

ピアノを習う;将棋を習う;習った先生

Các từ khác
学習する [học tập]
自習する [tự tập]
独学する [độc học] tự học (ở nhà)
教わる osowaru [giáo] được ai dạy cho
受講する [thụ giảng]
通学する [thông học, tới trường học]
習得する [tập đắc, học được]

Academic Japanese
●●●の知識を身につける/●●●を身につける
例:経済学の知識を身につけたいと考えています。

Các bạn hãy phân biệt sắc thái các từ trên nhé. Với các bạn trình độ N4/5 (sơ cấp) thì học ngữ nghĩa và phân biệt sắc thái của 勉強する, 学ぶ và 習う。

Đọc thêm
>>Các từ chỉ sự thông minh trong tiếng Nhật
>>Các từ chỉ sự ngu ngốc trong tiếng Nhật
>>Các từ chửi rủa trong tiếng Nhật

[Từ vựng JLPT N2] こらえる và nhóm từ "chịu đựng"

Tại lớp luyện thi Cú Mèo JLPT N2 thì có học từ こらえる (堪える/怺える). Từ này có nghĩa là "kìm, nén":
痛みをこらえる
涙をこらえる (như trong bài hát Odoriko)

Tức là kìm nén nỗi đau hay cảm xúc. Chú ý là koraeru dùng với trợ từ を。

Từ này thuộc nhóm từ "chịu đựng". Thông thường nhất là 我慢する (gamansuru, ngã mạn). Đây là chịu đựng nói chung:
彼の悪い態度を我慢する chịu đựng thái độ của hắn ta
あんな人には我慢できません
我慢強い(がまんづよい)

Hoặc là cố chịu cơn thèm khát: 今夜ぐらい酒を我慢できないのか

耐える:暑さに耐える;憤慨に耐える [nại, chịu đựng]
Chú ý taeru dùng với trợ từ "ni".

辛抱する(しんぼうする, tân bão) từ thuộc ngôn ngữ Phật giáo nghĩa là "nhẫn nhịn" (kiên nhẫn chịu đựng)
今を辛抱する
辛抱する木に金がなる (ngạn ngữ) có công mài sắt có ngày nên kim, kiên nhẫn nỗ lực sẽ thành công
しんぼうにん【辛抱人】=辛抱強い人。辛抱してよく働く人。辛抱者。

忍ぶ(しのぶ, nhẫn)
1 つらいことをがまんする。じっとこらえる。耐える。「恥を―・んで申し上げます」「不便を―・ぶ」
2 自分の存在や行いを、人に気付かれないようにする。外から見えないようにして身を置く。隠れる。「人目を―・んで通う」「―・ぶ恋」「世を―・ぶ」「物陰に―・ぶ」
Ngoài ra còn có từ ghép như 耐え忍ぶこらえ忍ぶ

Để hiểu sắc thái thì hãy tra từ điển nhé. Còn để thi JLPT N2 điểm cao thì hãy chú ý tới trợ từ đi kèm với nhóm từ chịu đựng ở trên.

Thứ Năm, 23 tháng 2, 2017

[Ngữ pháp N4] Mẫu ngữ pháp Vていただけませんか (hay Vでいただけませんか)

文法(文型):Vていただけませんか。 or Vでいただけませんか。

Cách chia: Vて/で+いただけませんか?
Ý nghĩa: Yêu cầu một cách khiêm nhường và lịch sự.
Danh mục: Ngữ pháp JLPT N4

Giải thích và ví dụ của Saromalang

Đây là câu yêu cầu một cách khiêm nhường và lịch sự. Ví dụ:

お名前も書いていただけませんか?
Quý anh/chị có thể viết cả họ tên cho tôi được không ạ?

Đây là một yêu cầu. いただけません là lịch sự của いただけない, いただけない là phủ định của いただける, いただける là dạng khả năng của いただく. Và いただく là gì? Đây là dạng khiêm nhường của くれる (ai đưa hay làm gì cho tôi).
>>Bảng chia động từ tiếng Nhật Saromalang

Nếu nói dạng khiêm nhường nhưng không lịch sự thì là お名前も書いていただけないか?
Nếu nói lịch sự nhưng không khiêm nhường: お名前も書いてくれませんか
Vừa không lịch sự vừa không khiêm nhường ^^ お名前も書いてくれない? or お名前も書いてくれないか?
>>Phân biệt lịch sự - tôn kính - khiêm nhường trong tiếng Nhật

Chú ý, câu trên là câu đề nghị dạng câu hỏi nên か phải lên giọng か↗ nhé.
>>Phân biệt か↗ và か↘

Đơn giản vậy thôi. Đây là một số ví dụ khác:

① 先生、論文を書きましたので、御覧になっていただけませんか。
② お客様、住所を教えていただけませんか。
③ すみませんが、駅までの道を教えていただけませんか。
④ 教員:ねえ君、ちゃんと宿題をやっていただけないかね。
⑤ (職場で)先輩、市場調査のレポートをメールで送信しましたが、読んでいただけませんか。
Nguồn: Takahashi brain.

Quiz của Saromalang để các bạn mơ mộng
Các câu sau có sắc thái khác gì nhau:
①お名前も書いていただけませんか?
②お名前も書いていただけますか?
③お名前も書いていただきませんか?
④お名前も書いていただきますか?
Takahashi

Thứ Hai, 20 tháng 2, 2017

Sakura~ anata ni deaette yokatta: Hoa anh đào, thật may vì gặp được em

『さくら さくら 会いたいよ いやだ 君に今すぐ会いたいよ』
だいじょうぶ もう泣かないで 私は風 あなたを包んでいるよ
『さくら さくら 会いたいよ いやだ 君に今すぐ会いたいよ』
ありがとう ずっと大好き 私は星 あなたを見守り続ける
Hoa anh đào, hoa anh đào, anh muốn gặp em, không, anh muốn gặp ngay bây giờ
Không sao, đừng khóc nữa, anh là gió, sẽ bao bọc em
Hoa anh đào, hoa anh đào, anh muốn gặp em, không, anh muốn gặp ngay bây giờ
Cảm ơn em, anh đã thích em từ lâu, anh là ngôi sao, luôn dõi theo bảo vệ em ....

Ex Machina. あなたに出会えてよくなかった ^^

Đây là bài mà nhiều bạn trẻ yêu thích có lẽ là do giai điệu.
Xem phiên bản anime

Bài này cũng là ca khúc chủ đề trong phim truyền hình (ドラマ [drama]) Nhật "Bạn gái tôi là người máy" (僕の彼女はサイボーグ Boku no kanojo wa saiboogu):

Ca từ

Sakura no ki ni narou (Để tôi trở thành cây anh đào)

桜の木になろう (Để tớ trở thành cây anh đào) là bài hát về sự chia li với bạn bè cùng lớp khi tốt nghiệp, mỗi người một ngả. Đây là đĩa đơn của ban nhạc AKB48.

Nếu Việt Nam = Hoa phượng thì Nhật Bản = Hoa anh đào. Đây là những loài hoa tượng trưng cho sự chia tay khi tốt nghiệp. Khi bạn tốt nghiệp phổ thông thì vào mùa hè, mùa hoa phượng, bạn bè sẽ tứ tán cả trừ khi bạn tình cờ học cùng lớp đại học với bạn cấp ba, kiểu "không hẹn mà gặp" giống như tôi. Vì cả hai HỌC KÉM QUÁ! nên chắc bị xếp chung trong mấy chục lớp.

Ở Nhật thì là mùa hoa anh đào. Chắc chẳng bao giờ gặp lại bạn cũ nữa, vì lên đại học rồi còn phải luyện game, luyện phim, và cuộc sống mới, rồi tình yêu sôi nổi và thất tình nữa thời gian đâu nhớ lại thời cấp ba.

Để dịch cho nghệ thuật thì 桜の木になろう có thể dịch là "Hãy vững tâm như cây anh đào" dù thời gian có trôi qua cũng sẽ không thay đổi, tình bạn chúng mình là mãi mãi.
"Mỗi năm đền hè lòng man mác buồn, Chín mươi ngày qua chứa chan tình thường"
(Nỗi buồn hoa phượng - Thanh Sơn)

永遠の桜の木になろう
そう僕はここから動かないよ
もし君が心の道に迷っても
愛の場所がわかるように立っている
Để tôi biến thành cây anh đào vĩnh viễn, Như thế tôi sẽ không rời khỏi đây đâu
Cho dù bạn có lạc lối trong lòng thì tôi vẫn đứng để bạn biết được nơi có tình yêu

Nghe bài hát

Ca từ
桜の木になろう
歌:AKB48 作詞:秋元康 作曲:横健介
春色の空の下を
君は一人で歩き始めるんだ
いつか見た夢のように
描いて来た長い道
制服と過ぎた日々を
今日の思い出にしまい込んで
新しく生まれ変わる
その背中を見守ってる
不安そうに振り向く
君が無理に微笑んだ時
 頬に落ちた涙は
大人になるための
ピリオド
永遠の桜の木になろう
そう僕はここから動かないよ
もし君が心の道に迷っても
愛の場所がわかるように立っている
教室の日向の中
クラスメイトと語った未来は
今 君が歩き出した
その一歩目の先にある
満開の季節だけを
君は懐かしんでいてはいけない
木枯らしに震えていた
冬を越えて花が咲く
誰もいない校庭
時に一人 帰っておいで
卒業したあの日の
輝いている君に
会えるよ
永遠の桜の木になろう
スタートの目印になるように
花びらのすべてが散っていても
枝が両手広げながら待っている
誰もみな 胸に押し花のような
決心をどこかに忘れている
思い出して
桜が咲く季節に
僕のことを・・・
一本の木を・・・
永遠の桜の木になろう
そう僕はここから動かないよ
もし君が心の道に迷っても
愛の場所がわかるように立っている
Takahashi

Sakurairo mau koro

Lại sắp tới mùa hoa anh đào! Nên Saromalang sẽ viết về các bài hát về hoa anh đào để các bạn còn kịp đi ngắm.

Hoa anh đào là một loài hoa đẹp và làm người Nhật cũng như nhân dân thế giới say mê. Ngắm hoa anh đào ở Nhật là một đặc ân. Mặc dù ở Mỹ, Hàn Quốc, Đài Loan cũng có hoa anh đào. Nhưng ở Nhật còn có triết lý về sự sống, cái chết, vẻ đẹp, nhất là cái đẹp ngắn ngủi. Khi mùa anh đào đến thì khắp nước Nhật sẽ tràn ngập hoa anh đào, ở mọi công viên, mọi góc phố. Đây chính là điều đặc biệt khi ngắm hoa ở Nhật. Ở các trường đại học Nhật Bản cũng có rất nhiều hoa anh đào và bạn có thể đứng giữa sân trường hay sân vận động để ngắm hoa.

Hoa anh đào vào mùa xuân ở đại học Jumonji. Ảnh: Twitter trường.

Lần này là bài 桜色舞うころ (Sakurairo mau koro).
koro là khoảng thời gian.
mau là nhảy múa, bay theo gió.
sakurairo là màu hoa anh đào.

Ngay tiêu đề bài hát cũng đã gây chút khó hiểu cho người học tiếng Nhật. Theo tôi dịch đúng thì là "Khi sắc anh đào bay", cũng như "Vùng lá me bay" của Việt Nam.

"Khi sắc anh đào bay theo gió" là khi vào cuối tháng 3, đầu tháng 4 khi hoa anh đào nở rực rỡ chỉ trong vòng 1 - 2 tuần và sẽ rụng xuống bay lả tả trong gió. Đây là mùa chia li ở Nhật khi các trường Nhật Bản kết thúc năm học vào tháng 3 và bắt đầu năm học mới vào tháng 4.

Với các bạn kết thúc trường phổ thông thì chắc chắn sẽ chia li, người đi đại học, cao đẳng, người đi học nghề, thậm chí đi làm.
桜色舞うころ
sakurairo mau koro
私はひとり
watashi wa hitori
あなたへの想いを
anata e no omoi o
かみしめたまま
kamishimeta mama
Khi sắc anh đào bay theo gió, tôi vẫn ôm chặt nỗi nhớ về bạn một mình
Nghe bài hát trên Youtube

Ca từ
桜色舞うころ (Sakurairo mau koro)
Nhạc/作詞:川江美奈子 (Kawae Minako, Xuyên-giang Mĩ-nại-tử)
Lời/作曲:川江美奈子
Ca sỹ: 中島 美嘉 (Nakashima Mika)
桜色舞うころ
sakurairo mau koro
私はひとり
watashi wa hitori
押さえきれぬ胸に
osae kirenu mune ni
立ち尽くしてた
tachitsuku shiteta
若葉色 萌ゆれば
wakaba iro moyureba
想いあふれて
omoi afurete
すべてを見失い
subete o miushinai
あなたへ流れた
anata e nagareta
めぐる木々たちだけが
meguru kigitachi dake ga
ふたりを見ていたの
futari o mite ita no
ひとところにはとどまれないと
hito tokoro ni wa todomarenai to
そっとおしえながら
sotto oshie nagara
枯葉色 染めてく
kareha iro someteku
あなたのとなり
anata no tonari
移ろいゆく日々が
utsuroi yuku hibi ga
愛へと変わるの
ai e to kawaru no
どうか木々たちだけは
dou ka kigitachi dake wa
この想いを守って
kono omoi o mamotte
もう一度だけふたりの上で
mou ichido dake futari no ue de
そっと葉を揺らして
sotto ha o yurashite
やがて季節(とき)はふたりを
yagate toki wa futari o
どこへ運んでゆくの
doko e hakonde yuku no
ただひとつだけ 確かな今を
tada hitotsu dake tashika na ima o
そっと抱きしめていた
sotto dakishimete ita
雪化粧 まとえば
yukigeshou matoeba
想いはぐれて
omoi hagurete
足跡も消してく
ashiato mo keshiteku
音無きいたずら
oto naki itazura
どうか木々たちだけは
dou ka kigitachi dake wa
この想いを守って
kono omoi o mamotte
「永遠」の中にふたりとどめて
‘eien’ no naka ni futari todomete
ここに 生き続けて
koko ni iki tsuzukete
めぐる木々たちだけが
meguru kigitachi dake ga
ふたりを見ていたの
futari o mite ita no
ひとところにはとどまれないと
hito tokoro ni wa todomarenai to
そっとおしえながら
sotto oshie nagara
桜色舞うころ
sakurairo mau koro
私はひとり
watashi wa hitori
あなたへの想いを
anata e no omoi o
かみしめたまま
kamishimeta mama
Takahashi

Mùa hoa anh đào: "Mùa xuân sang có hoa anh đào, màu hoa tôi trót yêu từ lâu"

Bài hát "Mùa hoa anh đào" với câu "Mùa xuân sang có hoa anh đào, màu hoa tôi trót yêu từ lâu" không phải là bài hát của người Nhật mà là bài hát do nhạc sỹ Thanh Sơn (tác giả "Nỗi buồn hoa phượng" và nhiều ca khúc nổi tiếng khác) sáng tác để tặng vợ vào những năm 1960.
Mượn chất liệu dân ca Nhật Bản, "Nhớ mùa hoa anh đào" nổi tiếng đến mức nhiều người lầm tưởng đó là một ca khúc Nhật Bản được viết lời Việt: "Mùa xuân sang có hoa anh đào, màu hoa tôi trót yêu từ lâu. Lòng bâng khuâng nhớ ai năm nào, hẹn hò nhau dưới hoa anh đào, mình nói chuyện ngày sau".

Saromalang sẽ đăng nhiều bài hát liên quan tới văn hóa Nhật Bản vì học văn hóa thì học ngôn ngữ sẽ tốt hơn và ngược lại. Hơn nữa, cũng vui mà.

Nghe bài hát trên Youtube

Ca từ
Lời bài hát: Mùa hoa anh đào (Nhớ mùa hoa anh đào)
Mùa xuân sang có hoa anh đào, màu hoa tôi trót yêu từ lâu
Lòng bâng khuâng, nhớ ai năm nào
Hẹn hò nhau dưới hoa anh đào, mình nói chuyện ngày sau
Còn tìm đâu phút vui ban đầu
Bụi thời gian cuốn trôi về đâu
Để cho ai nhớ thương ai nhiều
Vì đã xa cách nhau lâu rồi, dù nói không nên lời
Chuyện đời như một giấc chiêm bao mà thôi
Tìm về quá khứ thấy xôn xao lòng tôi
Gió xuân đến bao giờ
Ngỡ như bước chân ai qua thềm hay là mơ
Rồi xuân sang có hoa anh đào
Màu hoa tôi trót yêu từ lâu
Lòng bâng khuâng, nhớ ai năm nào
Hẹn hò nhau dưới hoa anh đào mình nói chuyện ngày sau
Rồi xuân sang thấy hoa anh đào
Màu hoa đây, dáng xưa còn đâu
Niềm tâm tư khép kín trong lòng
Và tôi yêu bóng ai năm nào Như đã yêu hoa anh đào
Đôi khi ca từ được "xuyên tạc" thành:
“Mùa xuân sang có hoa anh đào, mùa hạ sang có hoa đào anh, mùa thu sang có hoa anh đào rồi đông sang cũng hoa anh đào, ôi cả năm là hoa anh đào”
Nhạc sỹ Thanh Sơn
Thanh Sơn (1 tháng 5, 1938 – 4 tháng 4, 2012) tên thật Lê Văn Thiện (còn có bút danh khác là Sơn Thảo), là một nhạc sĩ Việt Nam. Ông được biết đến từ thập niên 1960 với những ca khúc trữ tình nói về tuổi học trò. Khoảng thời gian sau, ông nổi tiếng với các ca khúc về miền Tây Nam Bộ[4] mang âm hưởng dân ca Nam bộ và với dòng nhạc bolero. >>Wikipedia
Takahashi

Bài hát "Sakura, sakura" (Sakurahana)

Bài dân ca Nhật Bản có tên gọi là さくら、さくら (Sakura, sakura) hay 桜花 Sakurahana (Hoa anh đào). Đây là bài dân ca nổi tiếng, với giai điệu đơn giảm đậm chất Nhật Bản về hoa anh đào.
Nghe bài hát trên Youtube:


Ca từ của bài hát: さくらさくら
さくら さくら Sakura, sakura
やよいの空は Yayoi no sora wa
見わたすかぎり Miwatasu kagiri
かすみか雲か Kasumi ka, kumo ka
匂いぞ(においぞ) Nioi zo
出ずる(いずる) Izuru
いざや いざや Izaya, izaya
見にゆかん Mi ni yukan

Dịch lời của Saromalang:
Hoa anh đào, hoa anh đào
Bầu trời tháng ba nhìn khắp nơi khắp chốn
Là sương mù hay là mây?
Hương thơm
Ló dạng
Nhanh chân nào, nhanh chân nào
Đi ngắm hoa với tôi không?

ゆかん = 行かない?行かないか? tức là "có đi không".

Chú ý trong đoạn trên là やよい(弥生 , di sinh), ý nghĩa là “tháng ba” tuy nhiên đây là tháng ba âm lịch, nên thường là tháng tư dương lịch. Hoa anh đào thường nở vào tầm cuối tháng ba, đầu tháng tư dương lịch (tham khảo lịch nở hoa).
Tương tự, có bài haiku nổi tiếng đã giới thiệu tại Saromalang:
下駄洗う 音無川や 五月晴れ
Geta arau, Otonashi kawa ya, Satsukibare
Ở đây satsuki (皐月、五月)  là tháng năm âm lịch. Mười hai tháng âm lịch là 睦月 [mục nguyệt, tháng giêng = tháng 1 âm]、如月 [như nguyệt, tháng 2 âm]、弥生 [di sinh, tháng 3 âm]、卯月 [mão nguyệt, tháng 4 âm]、皐月 [cao nguyệt, tháng 5 âm]、水無月 [thủy vô nguyệt, tháng 6 âm]、文月 [văn nguyệt, tháng 7 âm]、葉月 [diệp nguyệt, tháng 8 âm]、長月 [trường nguyệt, tháng 9 âm]、神無月 [thần vô nguyệt, tháng 10 âm]、霜月 [sương nguyệt, tháng 11 âm]、師走 [sư tẩu, tháng chạp = tháng 12 âm]。
Ý nghĩa của bài hát chỉ là ca ngợi vẻ đẹp của hoa anh đào, nở khắp nơi trên nước Nhật vào mùa xuân khoảng đầu tháng 4 dương lịch, nhìn đâu cũng như mây, như sương vậy. Sở dĩ hoa anh đào ở Nhật đẹp vì khi tới mùa đi tới đâu cũng thấy hoa anh đào, ở công viên gần nhà, trường học của bạn hay con đường mà bạn vẫn đi học, đi làm thêm. Đơn giản là đẹp và cảm xúc dâng trào về một cái đẹp lung linh nhưng ngắn ngủi. Vì thế, trong mỹ học của người Nhật thì sở dĩ hoa anh đào đẹp là vì nó sẽ rụng, sở dĩ đời người đẹp vì con người sẽ chết đi. Quan trọng là khi sống bạn có đẹp (hành động đẹp, hay tạo ra sản phẩm đẹp) hay không mà thôi. Từ đó hình thành nên tinh thần võ sỹ đạo ở Nhật, đã sống là phải có danh dự và cái chết chỉ là sự tiếp nối của sự sống, giống như hoa anh đào nở rồi lại tàn, cây trụi lá rồi lại nẩy mẩm ra lá, và mỗi độ xuân về lại nở hoa rực rỡ.

Phiên bản ca từ khác: 桜花 Sakurahana
さくら さくら Sakura, sakura
野山も里も Noyama mo sato mo
見わたす限り Miwatasu kagiri
かすみか雲か Kasumi ka, kumo ka
朝日ににおう Asahi ni niou
さくら さくら Sakura, sakura
花ざかり Hanazakari

Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2017

Phương pháp học tiếng Nhật thành công năm 2017

"Làm thế nào để thành công trong việc học tiếng Nhật" có lẽ là câu hỏi quan trọng nhất của các bạn đã và đang học tiếng Nhật. Hiện nay thì cũng có khá nhiều phương pháp phổ biến như:
Phương pháp phản xạ (đốp chát)
Phương pháp shadowing (học vẹt)
Học ngày 8 tiếng
Tới lớp học 3 tiếng/ngày
Tự học ở nhà bằng sách vv

Trong bài này, Saromalang sẽ giới thiệu cách học tiếng Nhật cho năm 2017. Làm thế nào để học tiếng Nhật thành công? Nếu nói tóm gọn lại "bí quyết" thì đây:

MÁY MÓC + MƠ MỘNG

Nếu chỉ máy móc hoặc chỉ mơ mộng thì sẽ không thành công. Để thành công thì phải học một cách máy móc, đồng thời cũng phải mơ mộng.


Học một cách máy móc (機械的に勉強する)

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2017

Nokoribi 残り火 [lửa tàn] một bài hát Nhật cũng hay bị nhầm là nhạc Hoa

残り火 Nokoribi là một bài hát của Nhật Bản, sáng tác nhạc, lời và biểu diễn bởi ca sỹ 五輪真弓 Itsuwa Mayumi [Ngũ-luân Chân-cung]. Nghĩa là "Lửa tàn" tức là "Tình tan". Có lẽ là tiền hết, tình tan, đời tàn, quần cũng ... rách!

残り火 Nokoribi, khi lửa tàn là tình sẽ tan

Có thể nghe bản cover bài Nokoribi trên Youtube.

Tiếng Việt có bài dùng nhạc bài này gọi là "Tàn tro".
Trong tiếng Hoa cũng có các bài hát dùng nhạc bài này đó là:
Tiếng Bắc Kinh (quan thoại): 微風小雨 [vi phong tiểu vũ, Gió thoảng mưa nhỏ] >>Youtube
Tiếng Quảng Đông (Hong Kong): 夜風中 [dạ phong trung, trong gió đêm] >>Youtube
Tiếng Đài Loan: 注定為你等待 [quyết tâm đợi anh]

Nội dung bài hát Nokoribi (Lửa tàn) là về một người phụ nữ thất tình lẻ loi đơn bóng không quên được người yêu cũ.
Giống như Sầu lẻ bóng (1): "Người ơi, khi cố quên là khi lòng nhớ thêm, dòng đời là chuỗi tiếc nhớ " >>Youtube
Hoặc Sầu lẻ bóng 2: "Từ khi mất nhau rồi, tim tôi thành sỏi đá" >>Youtube
あなたの知らない
誰かに身を寄せ
夢路をたどるの あなたを忘れて
Em sẽ phó mặc đời này cho ai đó, người mà anh không biết
Sẽ quên anh đi, Chỉ còn gặp trong mộng mà thôi
Tóm lại là cắt đứt quan hệ hoàn toàn, vì nếu quen người mà "anh" biết thì lại lằng nhằng vì không quên được "anh" ^^ Bài này thuộc thể loại thất tình, thuộc ca nặng, khó mà chữa lành dù "Thời gian là thuốc tiên" hay "Time heals all sorrows (時はすべての傷を癒す Toki wa subete no kizu wo iyasu, thời gian chữa lành mọi vết thương)".
>>Cẩm nang đối phó với thất tình khi du học

Chắc chắn là còn nuối tiếc dữ lắm:
過ぎた日のぬくもり
手さぐりでさがしてる
Lần tay tìm lại cảm giác ấm áp
Của những ngày đã trôi qua
Giống như thế này (Sầu lẻ bóng):
Từ lâu tôi biết câu thời gian là thuốc tiên, đời việc gì đến sẽ đến!
Nhưng ai bạc bẽo mình vẫn không đành lòng quên!
Chưa hiểu tình yêu là gì mà mang tính hủy hoại đến thế, nhưng hình như, càng khốn nạn thì lại càng khó quên thì phải. Tình cảm hay biến cố cuộc đời thiên về biên độ cảm xúc, nhiều hơn là good/bad (tốt/xấu), chẳng thế mà bad guy thì bao giờ cũng tạo nhiều cảm xúc cho phụ nữ hơn là nice guy. Không có nghĩa là tôi khuyên bạn nên cư xử tồi tệ với phụ nữ, vì làm thế rất mệt và tốn thể lực, với lại phụ nữ ngày nay dinh dưỡng tốt người họ cũng dai lắm, không dễ bắt nạt như xưa, chưa kể phong trào đòi bình quyền nở rộ từ đông chí tây nhờ quyền bỏ phiếu. Các chính trị gia giờ đều mày râu nhẵn nhụi, đầu tóc bóng bẩy là vì thế, vì họ cần gom phiếu của phụ nữ - những người hầu như chỉ bỏ phiếu theo ngoại hình và những lời ngọt ngào chót lưỡi đầu môi. Rồi đến lúc họ thành nạn nhân trong tình yêu thì chắc chắn lại than trách người đời bạc bẽo.

Và bạn cũng chẳng cần là bad guy. Khi tình tan vỡ, tự động bạn sẽ thành kẻ tồi tệ thôi. ^^

Tôi thấy có sự tương đồng giữa người Nhật và người miền nam, ở mặt ca từ, có lẽ do ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục tây phương nên tâm hồn và ngôn ngữ phong phú.

Sai lầm lớn nhất trong tình yêu, theo tôi, là như thế này:
Ai, ai bảo thời gian không biến đổi
Khi thề nguyền trăm năm vẫn yêu tôi hỡi người ơi 
Hứa hẹn quá viển vông và phi lý, cứ như thể đó là chân lý bất di bất dịch, trong khi thời gian chính là sự biến đổi. Vì thời gian chính là sự biến đổi (change) nên chẳng có gì bất biến, kể cả tình yêu. Bài "Thời gian tuyệt đối" cũng đúng với cả tình yêu và câu "Thời gian là thuốc tiên" (thời gian chữa lành mọi vết thương) là đúng. Vì vết thương lòng chỉ là ký ức trong não bộ, sẽ suy giảm dần theo thời gian, nên bạn có thể vượt qua mọi cơn thất tình. Cái hay là nỗi đau mất dần theo thời gian và bạn lại có thể yêu lại, có thể là tập hai, tập ba. Nhưng ký ức về nỗi đau vẫn còn mãi.

nỗi đau chính là sự tiến hóa, hay nói cách khác là sự biến đổi. Con người cần ghi nhớ nỗi đau và lỗi lầm để còn rút kinh nghiệm, để tiến hóa lên bậc cao hơn, thế thôi. Rồi cuối cùng bạn cũng sẽ giác ngộ trong tình yêu thôi, đó là tình yêu là một chuỗi các phản ứng hóa học trong não dẫn dắt bạn tới những ảo tượng sai lạc về cuộc sống và tình yêu, vẽ ra cho bạn những ảo mộng phi thực tế, trước khi hủy hoại bạn để bạn vỡ mộng và nhận ra rằng tình yêu chỉ là sự nỗ lực bù đắp cho những thiếu hụt về tình cảm mà trải nghiệm tuổi thơ không tốt đẹp gây ra do sinh ra trong gia đình không được cha mẹ yêu thương đầy đủ mà không thể được bù đắp bởi tình yêu giới tính vì nó thuộc về lĩnh vực phân tâm học!

Nói ngắn gọn hơn thì hãy sinh ra trong gia đình tốt và IQ cao ngay từ đầu ^^

Ca từ bài hát Nokoribi

Thứ Tư, 8 tháng 2, 2017

ルージュ [rouge, son môi] bài hát hay bị nhầm là nhạc Hoa

ルージュ là bài hát Nhật, nghĩa là "Son môi" do ca sỹ lừng danh người Nhật 中島みゆき Nakajima Miyuki sáng tác nhạc và lời và làm ca sỹ luôn. Bài này trong tiếng Việt là "Người tình mùa đông" với câu đầu "Đường vào tim em ôi băng giá" có ý nghĩa khác hẳn với bài gốc tiếng Nhật và được lấy nhạc từ bài hát phổ tiếng Hoa nhạc Nhật. Thật ra bài "Người tình mùa đông" ca từ gần như là vô nghĩa, trong khi nhạc của Nakajima Miyuki thường mang tính triết lý nhân văn cao.

ルージュ là từ từ tiếng Pháp "rouge" nghĩa là "đỏ", từ đó hiểu là "son môi" (tiếng Nhật thường gọi là 口紅 kuchibeni). Bài "Son môi" này cũng có thể dùng để luyện phát âm và dịch ca từ tiếng Nhật. Đây là bài hát về cô gái bị người yêu phụ tình nên chạy lên thành phố để kiếm tìm nhưng không thấy, phải làm nghề tiếp khách, học được kỹ năng tô son, tiếp chuyện và những nụ cười giả tạo (作り笑い tsukuriwarai).
あの人追いかけて この町へ着いた頃は
 まだルージュはただひとつ うす桜
あの人追いかけて くり返す 人違い
いつか泣き慣れて
Quãng thời gian mới đi tìm người đó tới thành phố này
Màu son môi vẫn chỉ một màu hồng nhạt
Đuổi theo người đó cứ nhầm người mãi
Một lúc nào đó em đã quen khóc
... nhưng ở đoạn sau thì đã thành người tiếp khách chuyên nghiệp, có thể cười giả tạo, hiểu được việc này qua màu son môi không còn ngây thơ trong sáng như khi mới tới thành phố này.

ルージュ [rouge] nghĩa là "Son môi"

Trong bài lời Hoa nhạc Nhật thì tên bài hát là 容易受伤的女人 [dung dị thụ thương đích nữ nhân] tức là "Người phụ nữ dễ tổn thương". Có hai phiên bản khác nhau là phiên bản tiếng Quảng Đông - Hong Kong và phiên bản tiếng Hoa quan thoại (Bắc Kinh). Để các bạn tham khảo thì Saromalang đăng tất ở đây kèm Youtube tương ứng. Mục đích là xóa đi việc hiểu nhầm về nguồn gốc của bài hát và để các bạn có thể học dịch ca từ tiếng Nhật nữa.

Bản gốc tiếng Nhật ルージュ "Son môi"

>>Youtube
Ca từ
+Xem nội dung

Bản tiếng Việt "Người tình mùa đông"

>>Youtube
Ca từ
+Xem nội dung

Bản tiếng Quảng Đông - Hong Kong 容易受伤的女人 "Người phụ nữ dễ tổn thương"

>>Youtube
Ca từ
+Xem nội dung

Bản tiếng Hoa quan thoại  容易受伤的女人 "Người phụ nữ dễ tổn thương"

>>Youtube
Ca từ
+Xem nội dung
(C) Saromalang

Thứ Hai, 6 tháng 2, 2017

Chữ 哲学 [triết học] cũng là do người Nhật phát minh ra

哲学
てつがく。TRIẾT HỌC.

Những tưởng là từ của người China. Nhưng người China và cả người Việt đều không có triết học. Cho tới thời bị thực dân xâm chiếm họ còn không có logic tam đoạn luận và không có số học. Vì thế mà ngụy biện và đánh tráo khái niệm tràn lan. Người Nhật vốn cũng không có triết học, mà thường chỉ là "mỹ học", "đạo đức học", mãi tới thời Minh Trị duy tân họ mới bắt đầu học triết học phương tây.

Chữ 哲学 [triết học] là do ông 西周 Nishi Amane [1829 - 1897], một nhà triết học thời Meiji (明治 Minh Trị) sáng tác ra để dịch chữ philosophy từ tiếng Anh. Chữ này lại bắt nguồn từ philosophia tiếng Hi Lạp, nghĩa là yêu (philein) trí tuệ (sophia).

西周 có kanji là Tây Chu, trong đó 西 Tây là họ và 周 Chu là tên.

西周 Nishi Amane [1829 - 1897], nhà triết học thời đại Meiji
Nguồn thông tin:
https://kotobank.jp/word/哲学-101028
http://www.geocities.jp/studia_patristica/exis2.htm

Nguồn gốc của "lãng mạn" 浪漫 là gì?

浪漫 [lãng mạn] không phải là từ có gốc tiếng Hoa như mọi người vẫn nghĩ và nghe giống như chữ "roman". Từ này là do một người Nhật chế ra.

Thế nào là "lãng mạn"?

Lãng mạn bắt nguồn từ tiếng Pháp "roman" hoặc tiếng Anh "romance" (tính từ là romantic). Nguồn gốc của chữ này là Roma (La Mã), tức tiếng latin. Vì các câu chuyện viết thời trung cổ là bằng tiếng latin, tức tiếng La Mã. Chữ alphabet trong tiếng Nhật cũng gọi là ローマ字 [roomaji, roma tự] tức là chữ La Mã.

Dần dần, romance mang nghĩa ước mơ, sự ái mộ hay mạo hiểm rồi mang ý nghĩa "câu chuyện về tình yêu ngọt ngào" tức là "lãng mạn".

Chữ "lãng mạn" chính là "roman" (Pháp ngữ) hay "romance" (ロマンス) (Anh ngữ). Chữ 浪漫 [ろうまん, lãng mạn] là chữ ateji (chữ gán) do nhà văn 夏目漱石 Natsume Souseki phát minh ra.

Về ý nghĩa kanji thì 浪 [lãng] là con sóng, trôi nổi. Ví dụ 流浪 [phiêu lãng]. Hãy ở Nhật người thi trượt đại học, không làm gì được gọi là 浪人 [lãng nhân]. Võ sỹ samurai mà chủ chết không nơi nương tựa của là 浪人 [lãng nhân], chỉ còn ý nghĩa sống là báo thù cho chủ. Có thù mà báo là may, không thì chả biết làm gì, nên gọi là "lãng" ^^

Còn 漫 [mạn] là lan khắp, phủ khắp, tràn lan ví dụ 漫画 [mạn họa, manga] tức là ảnh tràn lan xem xả láng.

Về ngữ nghĩa kanji thì "lãng mạn" là thả trôi "xả văn láng" đúng tác phong của các cặp yêu đương lãng mạn thả hồn trôi về tận đâu cho tới ngày đánh mất bản thân và tương lai để quay trở lại một câu hỏi mang tính "triết học" căn bản: Rốt cuộc tình yêu là gì?

Nhà văn Natsume Souseki là người phát minh ra chữ 浪漫 [lãng mạn]
Takahashi

Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2017

"Dân túy" nghĩa là gì?

Chủ nghĩa dân túy là gì?

Sự kiện nổi bật năm 2016 là sự xuất hiện của tổng thống Trump và chủ nghĩa dân túy Mỹ. Vậy dân túy nghĩa là gì, về mặt từ vựng?

Các nhà kiến thiết chủ nghĩa dân túy "cực hữu" Mỹ hiện đại: Trump và Bannon

"Chủ nghĩa dân túy" là gọi theo tiếng Hoa 民粹主義 [dân túy chủ nghĩa], về ngữ nghĩa mà nói thì túy là trong từ 精粋 [tinh túy], tức là coi nhân dân là nhất, là tinh túy. Ngược lại hạ thấp tầng lớp trí thức (知識人) và giới tinh hoa (elite, エリート). Trong Anh ngữ gọi là Populism và người theo chủ nghĩa dân túy gọi là populist. Trong đó từ la tinh "populus" nghĩa là "nhân dân" hay "đại chúng". Khi bạn popular nghĩa là bạn nổi tiếng trong nhân dân hay có nhiều khán giả, điều mà các ca sỹ nào cũng hướng tới.

Tiếng Nhật không dùng chữ "dân túy" mà phiên từ tiếng Anh thành ポピュリズム. Đôi khi còn gọi theo tiếng Nhật là 大衆主義 [đại chúng chủ nghĩa] hay 人民主義 [nhân dân chủ nghĩa].

Tóm lại thì "dân túy" nghĩa là "lấy dân chúng làm hàng đầu, coi trọng hàng đầu", "không gì (quý) bằng nhân dân".

Vì sao chống lại trí thức và tinh hoa?

Bài tập dịch ca từ bài hát "Tái hiện" リバイバル

リバイバル là phiên âm của "revival" tức là sống lại hay tái hiện. Ở đây là sự tái hiện lại tình yêu xưa cũ kiểu Mười năm tình cũ↗ ("mười năm không gặp tưởng tình đã cũ").

Đây là sự hồi tưởng lại tình yêu xưa cũ đã từng mãnh liệt nhưng giờ chỉ còn là sự tái hiện mờ nhạt. Có lẽ là do ký ức phai nhạt dần theo thời gian.
アー あれほど激しく燃えた
心が 今は灰色のリバイバル
A, con tim đã từng cháy mãnh liệt tới như thế giờ chỉ còn là sự tái hiện màu tro xám
Bài tập dịch (dùng cho lớp dịch thuật Cú Mèo)
1. Dịch toàn bộ ra tiếng Việt.
2. Nêu ý nghĩa của ca từ và vì sao lại thế.

Từ vựng
降りしきる furishikiru không ngừng rơi
足早に ashibayani nhanh chân, nhanh bước
稲妻 inazuma tia chớp
行きずりの人 yukizuri no hito người qua đường
涙ぐむ namidagumu đẫm lệ
ラストシーン last scene cảnh cuối
面影 omokage hình bóng trong tâm trí (về ai đó)
物語 monogatari chuyện kể
蒼ざめる aozameru ngả màu xanh, trở nên trắng xanh (vì sợ hãi vv)

Nghe bài hát trên Youtube

Ca từ

Thứ Năm, 2 tháng 2, 2017

Bài tập dịch ca từ "Hai người trong mưa" Ame no naka no futari

Bài hát 雨の中の二人. Dùng cho lớp dịch thuật Cú Mèo Saromalang.

Từ vựng
理由 đọc là わけ chứ không đọc là りゆう như bình thường (là dạng ateji) chỉ "lý do"
裸足 hadashi chân trần, chân đất
寄りそい yorisoi ghé sát vào
しみる ngấm vào
蔭 kage bóng, phía sau
濡れる nureru ướt sũng

Bài tập
Câu 1: Nếu ý nghĩa bài hát
Câu 2: Dịch ra tiếng Việt

Nghe bài hát

Ca từ
歌手:五輪真弓
作曲:五輪真弓
作詞:五輪真弓
編曲:ミッシエル・べルナルク

Thứ Tư, 1 tháng 2, 2017

Bài tập dịch bài hát "Người ngoại quốc xa lạ"

Đây là bài hát 異邦人 (いほうじん), dùng để tập dịch tại lớp dịch thuật Cú Mèo.
異邦人 [dị bang nhân] cũng giống như 外国人 [ngoại quốc nhân] nhưng sắc thái là "người ngoại quốc xa lạ". Bối cảnh (trong trí tưởng tượng) của bài hát có lẽ là thành phố ở trung cận đông trên con đường tơ lụa, có thể là thành phố Istanbul.

Istanbul.

Từ vựng
彼方 kanata phía xa, đằng xa
ゆらゆらと (bay) phấp phới
祈り inori sự cầu nguyện
ひずめ móng ngựa
ざわめき sự ồn ào

Bài tập
Câu 1: Dịch câu あとは哀しみをもてあます 異邦人
Câu 2: Dịch toàn bộ bài hát ra tiếng Việt.
Câu 3: Ý nghĩa của bài hát.

Nghe bài hát trên Youtube

Tên bài hát: 異邦人 [Dị bang nhân, Người ngoại quốc, tạm dịch: Người ngoại quốc xa lạ]
Nhạc và lời: 久保田 早紀 Kubota Saki (Cửu-bảo-điền Tảo-kỷ)