Chủ Nhật, 28 tháng 6, 2020

Ra mắt từ điển chữ Tôm

Chữ Tôm là gì?

Từ điển chữ Tôm tức là từ điển chữ Nôm mới, chỉ dùng các chữ Hán đã có sẵn để ký âm tiếng Việt, nói cách khác, là chuyển mọi âm tiết tiếng Nhật sang chữ tượng hình. Nói nhiều thì dài dòng căn tự, nên đây là ví dụ minh họa:

Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
光‟彩‟底'水'印'天'、
城建'煙'碧'岳'晒'影'黄'

Từ điển dịch hai câu trong Truyện Kiều sang chữ kanji (hán tự) như trên, với ý nghĩa tương đương. Trong câu trên thì có "long lanh" là một từ láy, trong từ điển chữ Tôm, thì từ láy thường được viết theo dạng 〇‟〇‟ tức là dấu nháy kép ngược, và những chữ viết kiểu này thường tùy theo ngữ cảnh, cụm từ mà nó tạo ra mà thay đổi cách đọc, ví dụ:
dở ẹc 拙'極‟, lạ hoắc 異'極‟

Tất nhiên là để làm được như trên tức là dịch một cách tự động thì phải có CƠ SỞ DỮ LIỆU, tôi đã xây dựng cơ sở dữ liệu này. Ví dụ "bóng vàng" phải là bóng màu vàng, chứ không phải bóng của kim loại vàng. Nhưng nếu mà "nghìn vàng" thì lại phải là kim loại vàng, tức là 金':

Lòng này gửi gió đông có tiện,
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
心'此'送'風'東有'便、
千'金'請'送'到'岳'燕`

Từ điển cũng có thể dịch các bài thơ gốc Hán sang tiếng Hán tương ứng:

Cao nguyên thủy xuất sơn hà cải,
Chiến địa phong lai thảo mộc tinh
高原水出山河改、
戦地風来草木腥

Tức là: Nước chảy ra từ cao nguyên làm thay đổi núi sông, Gió từ chiến địa thổi tới làm cây cỏ bốc mùi tanh

Trong trường hợp này, chữ "mộc tinh" dễ bị phiên thành 木星 tức là Sao Mộc theo thuật toán. Vậy phải làm sao? Khi chọn chữ "tinh" (trường hợp này là 腥 tức là tanh), nếu chỉ xét chữ ngay cạnh là "mộc" thì sẽ chọn sai, nên phải xét cả chữ trước đó, do đó, phải viết thành thuật toán để làm điều này, để tăng tính chuyển đúng cho từ điển chữ Tôm.

Dưới đây là một số đoạn thơ viết bằng chữ Tôm, tức là chữ Nôm mới.

Viết lại Truyện Kiều bằng chữ Nôm mới tự động bằng từ điển chữ Tôm

Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
百'年'内'界'人'我'、
字'才字'命巧'是'憎'互'
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
経'過壱'局`海"桑'、
諸'条観'視'而'痛'疼'心'
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen
異'何'彼嗇斯豊、
天'青'慣'習'頰'紅戦'嫉'

Đoạn kết:
Lời quê chắp nhặt dông dài,
Mua vui cũng được một vài trống canh
言'郷'拱'拾'久‟長'、
買'楽'也'得'壱'幾'鼓'更

Một số đoạn khác:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
草'幼'青'尽脚'天'、
枝'梨白'点壱'幾'穂'花

Dưới trăng quyên đã gọi hè,
Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông
下'娥'鵑既'呼'夏'、
頭壁'火'榴立舞‟蕾"穂'

Trong câu này "lập lòe" là từ láy, từ điển chữ Tôm dùng 立舞‟ để diễn tả lập lòe, mượn nghĩa của chữ kanji nghĩa là "đứng múa".

Bạn cũng có thể chuyển Chinh Phụ Ngâm sang chữ Tôm:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
年"天'土'浮'陣'風'埃'、
客頰'紅多'感"屯`専。

Bạn cũng có thể tra những câu hay cụm từ bất kỳ ra tiếng Hán, ví dụ mộng hoàng lương = 夢黄粱, uyên ương hồ điệp mộng = 鴛鴦蝴蝶夢.

Bạn cũng có thể tra các từ gốc tiếng Quảng như "tài xế", "tài xỉu", "há cáo", "vằn thắn" vv sang chữ kanji, giúp ích cho việc học tập chữ kanji của bạn.
Takahashi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét