Trong tiếng Việt thì chúng ta gọi anh, chị của cha/mẹ là "bác", em trai của cha là "chú", em trai của mẹ là "cậu", em gái của mẹ là "dì", em gái của cha là "cô". Có một số vùng thì "dì" lại là chị của cha. Hay "cậu, mợ" thì lại là để gọi "cha, mẹ". Thậm chí, "cô" cũng được dùng để gọi chị của cha hay mẹ ở một số vùng.
Trong tiếng Anh thì anh hay em trai của cha/mẹ đều sẽ gọi là "uncle" tức là chú, bác.
Còn chị hay em gái của cha/mẹ gọi chung là "aunt" tức là bác (gái), cô, dì.
Trong tiếng Nhật, chú/bác gọi chung là おじ, còn cô/dì gọi chung là おば。
Tuy nhiên khi viết hán tự thì lại phân ra thế này:
おじ sẽ là 伯父 [bá phụ] hay là 叔父 [thúc phụ]
おば sẽ là 伯母 [bá mẫu] hay là 叔母 [thúc mẫu]
Vì sao lại thế?
伯 [bá] là anh hay chị của cha/mẹ. Còn 叔 [thúc] là em trai hay em gái của cha/mẹ.
Tôi nghĩ thế này:
Chữ "bác" trong tiếng Việt là từ chữ 伯 [bá] ra, còn chữ "chú" trong tiếng Việt là từ chữ 叔 [thúc] ra, có thể là ảnh hưởng cách đọc của tiếng Tiều.
Như vậy trong tiếng Nhật:
伯父 [bá phụ] = bác (anh trai của cha/mẹ)
叔父 [thúc phụ] = chú/cậu (em trai của cha/mẹ)
伯母 [bá mẫu] = bác (chị gái của cha/mẹ)
叔母 [thúc mẫu] = cô/dì (em gái của cha/mẹ)
>>Đại từ nhân xưng tiếng Nhật
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét